27/04/2024 lúc 12:49 (GMT+7)
Breaking News

Kinh nghiệm phát triển kinh tế số của một số quốc gia và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Nền kinh tế số của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á, với tổng giá trị hàng hóa (GMV) tăng 28%, từ 18 tỷ USD trong năm 2021 lên 23 tỷ USD năm 2022, nhờ sự tăng trưởng 26% của thương mại điện tử năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021(1).

Tuy nhiên, Việt Nam đã và đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình phát triển kinh tế số, như môi trường thể chế và pháp lý cho phát triển kinh tế số chưa đồng bộ, minh bạch và mang tính kiến tạo; việc xây dựng cơ sở dữ liệu và kết nối dữ liệu còn manh mún, thiếu sự kết nối liên thông; nguồn nhân lực công nghệ - thông tin chưa đáp ứng yêu cầu; việc bảo đảm an ninh mạng, bảo mật, an toàn thông tin chưa tốt... Việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế để góp phần tìm kiếm giải pháp khắc phục những hạn chế trên có ý nghĩa quan trọng trong phát triển nền kinh tế số của Việt Nam thời gian tới.

Ảnh minh họa - Internet

Kinh nghiệm phát triển kinh tế số của một số quốc gia

Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức

Đức là quốc gia triển khai phát triển nền kinh tế số bằng chiến lược tổng thể, bài bản ở cả cấp độ quốc gia, ngành và doanh nghiệp. Đức đã thành lập Phòng Công nghiệp 4.0 ở Bộ Kinh tế và Năng lượng, chịu trách nhiệm tham mưu và tổ chức triển khai chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong toàn quốc; thiết lập các tổ công tác đặc trách, như: tổ về xây dựng tiêu chuẩn, tổ về đào tạo - việc làm, tổ về an ninh mạng, tổ về xây dựng mô hình... để quản lý, điều hành từng lĩnh vực cụ thể. Chính phủ Đức cũng đề ra chiến lược phát triển kinh tế số tập trung vào một số lĩnh vực: 1- Ứng dụng kỹ thuật số trong các ngành công nghiệp mới, như: robot thế hệ mới, phương tiện thông minh (xe tự lái, tàu điện tự lái, tàu ngầm tự lái, máy bay tự lái...), vật liệu thông minh, năng lượng thông minh. 2- Chuyển đổi mô hình đào tạo nhân lực theo hướng đề cao tính linh hoạt, tính mở, tính tự chủ của các cơ sở đào tạo dựa trên đối thoại giữa nhà trường với doanh nghiệp nhằm thích ứng với sự thay đổi của cơ cấu ngành nghề trong nền kinh tế số và tập trung đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật các kỹ năng số cho người lao động thông qua nhiều hình thức khác nhau. 3- Phát triển hệ thống sản xuất thông minh, nhà máy thông minh bằng cách sử dụng IoT và công nghệ sản xuất tự động. Trong hệ thống sản xuất thông minh của Đức, các nhà máy thông minh, các hàng hóa, dịch vụ bên trong, bên ngoài nhà máy, các khâu của quá trình sản xuất như các chuỗi giá trị sản phẩm, thiết kế cơ sở sản xuất, sản xuất, bảo trì… được tiêu chuẩn hóa và liên kết với nhau. Với sự liên kết này, cả khu vực sản xuất của Đức sẽ hoạt động như một nhà máy thông minh lớn (2).

Kinh nghiệm của Estonia

Một biện pháp quan trọng mà Estonia áp dụng thành công trong phát triển kinh tế số là “Hạ tầng băng thông rộng của Estonia - Dự án Network” (EstWin), do Bộ Kinh tế Estonia khởi động vào năm 2009 với mục đích cung cấp 6.600km cáp quang ở các vùng nông thôn và các khu có ít hơn 10.000 dân. Đến năm 2020, 98% số hộ gia đình, doanh nghiệp và tổ chức không được cách Estwin quá 1,5km và tất cả các nút mạng hiện có đều được kết nối với hệ thống mạng lõi. 85% số chi phí của Estwin được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khu vực châu Âu (ERDF), trong khi phần còn lại 15% số chi phí xây dựng mạng được đồng tài trợ bởi các nhà khai thác mạng hỗ trợ. Cùng với đó, Estonia còn có những chương trình, như Chương trình Nghị sự kỹ thuật số 2020 cho Estonia (Digital Agenda 2020 for Estonia), Chiến lược học tập suốt đời của Estonia năm 2020 (Estonian Lifelong Learning Strategy 2020) đã tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế số và chuyển đổi số của Estonia. Chính phủ Estonia đã thực hiện chương trình sử dụng thẻ điện tử nhằm hỗ trợ cho người dân, tạo kết cấu hạ tầng thông tin kỹ thuật số X-road, từ đó người dân có thể truy cập bằng E-ID của họ. Hằng năm, các dữ liệu dân cư được cho phép thêm vào bởi các thiết lập mở. Hệ thống thông tin được cung cấp đầy đủ, như bảo hiểm, đăng ký xe, căn cước..., cho phép người dân sử dụng các dịch vụ, như: bỏ phiếu điện tử, thuế trực tuyến, y tế trực tuyến..., giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc thay vì đăng ký và kê khai các dịch vụ trên giấy. Ngoài ra, Estonia luôn chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Năm 1995, ý tưởng “Bước nhảy của hổ” đã mang lại sự phát triển về giáo dục cho Estonia. Năm 2018, nhân lực của Estonia đứng thứ 10, hoạt động tốt hơn mức trung bình của EU. Các chương trình “The Digital Agenda 2020 for Estonia”, “Estonian Lifelong Learning Strategy 2020” của Estonia đã mang lại hiệu quả rất lớn trong việc phổ cập kỹ năng số cho người dân với chiến lược học tập suốt đời là: “Tập trung kỹ thuật số vào học tập suốt đời” là ưu tiên hàng đầu vì chúng là tiền đề của thị trường lao động toàn diện, cải thiện năng suất, tăng trưởng kinh tế bền vững.

Kinh nghiệm của Nhật Bản

Nhật Bản đã áp dụng thành công chiến lược đầu tư nhằm tăng năng suất của nền kinh tế Nhật Bản trong bối cảnh phát triển kinh tế số. Chiến lược này tập trung vào các nội dung: Tái cơ cấu các ngành kinh tế và việc làm để thích ứng với kinh tế số, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; bảo đảm hạ tầng an ninh thông tin để tăng cường an ninh mạng; thúc đẩy việc sử dụng công nghệ thông tin trong các ngành, lĩnh vực kinh tế. Để xây dựng, thực hiện mục tiêu trở thành quốc gia công nghệ thông tin tiên tiến nhất thế giới, Nhật Bản xác định công nghệ thông tin là trụ cột của chiến lược tăng trưởng, là giải pháp giúp vượt qua tình trạng trì trệ và thúc đẩy phục hồi kinh tế. Tiếp đến là chiến lược về an ninh mạng, trong đó, tập trung vào ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực để tăng cường khả năng phát hiện, chống lại các cuộc tấn công mạng. Chiến lược này nhằm tăng cường việc bảo đảm an ninh mạng, an ninh thông tin cho nền kinh tế Nhật Bản thông qua việc phát triển các hệ thống IoT an toàn, tạo ra một xã hội an toàn cho người dân.

Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trong định hướng chính sách phát triển kinh tế số, Trung Quốc thực hiện việc bảo hộ thị trường công nghệ số trong nước để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, khẳng định vị thế độc quyền. Các doanh nghiệp trong nước được hỗ trợ để chiếm lĩnh thị trường công nghệ số trong nước trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Trung Quốc có chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực, ngành công nghệ số. Hiện nay, Trung Quốc nằm trong top ba thế giới về đầu tư vốn mạo hiểm vào các loại công nghệ kỹ thuật số quan trọng, bao gồm thực tế ảo, xe tự hành, in 3-D, robot, máy bay không người lái và trí tuệ nhân tạo (AI)... Về chính sách quy hoạch, định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực công nghệ số, trước hết, Trung Quốc tập trung vào những lĩnh vực công nghệ số đòi hỏi công nghệ vừa phải, như thương mại điện tử, sau đó mới tiến tới phát triển những lĩnh vực công nghệ số khó hơn, như trí tuệ nhân tạo, robot,...

Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc cũng tạo điều kiện và không gian để các doanh nghiệp số thử nghiệm, đồng thời vừa là nhà đầu tư, vừa là người tiêu dùng các công nghệ số khi chú trọng việc phát triển, chuyển đổi các phương thức, giao dịch trong nền kinh tế sang sử dụng công nghệ số, tập trung vào việc phát triển chính phủ điện tử, ngân hàng điện tử, giao dịch điển tử và thương mại điện tử. Ngay từ năm 2010, Trung Quốc đã chủ trương thành lập chính phủ điện tử bằng việc phát triển chữ ký điện tử, yêu cầu các cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương phải thiết lập trang web riêng, cung cấp nhiều dịch vụ trực tuyến tạo thuận lợi cho công việc và đời sống của người dân. Hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đang dần được thay thế bằng các phương thức thanh toán điện tử hiện đại như quét mã QR, thanh toán bằng ví điện tử. Đến nay, hai ứng dụng thanh toán điện tử phổ biến nhất hằng ngày tại Trung Quốc là WeChat Pay (Tenpay) của Tencent và Alipay của Alibaba thông qua điện thoại di động và đòi hỏi người dùng phải đăng ký bằng tên thật, kết nối với tài khoản ngân hàng (3).

Kinh nghiệm của Malaysia

Malaysia là quốc gia đầu tiên của Đông Nam Á ban hành và thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu (Data Protection Act). Chính phủ Malaysia cũng đề ra một số kế hoạch và dự án nhằm nâng cao hạ tầng kinh tế số của quốc gia này, như: dự án High Speed Broadband (HSBB) giai đoạn 2020 - 2025; Sub - Urban Broadband (SUBB) giai đoạn 2015 - 2020; Rural Broadband (RBB) năm 2020. Theo đó, Dự án HSBB 1 đã cung cấp hơn 1 triệu cổng kết nối với tốc độ 10Mb/s; dự án HSBB 2 cung cấp 390.000 cổng mới cho các thủ phủ của tiểu bang, thị trấn và các khu vực tăng trưởng cao sử dụng FTTH, ETTH và VDSL lên đến 100Mbps; dự án RBB mở rộng dịch vụ băng thông rộng tại nông thôn; dự án SUBB cung cấp 420.000 cổng mới từ 421 sàn giao dịch và nâng cấp các đường dây đồng hiện có cung cấp băng thông rộng ở các vùng ngoại ô và nông thôn bên ngoài khu vực HSBB và HSBB2 với tốc độ 20Mbps.

Chương trình: “MSC Malaysia” (MSC) với mục tiêu hỗ trợ công ty công nghệ địa phương phát triển, thu hút vốn trong và ngoài nước đã mang lại thành quả rõ rệt. Chương trình “Doanh nhân công nghệ Malaysia” (MTEP - Malaysia Tech Entrepreneur Programme) là chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khá rõ nét của Malaysia. Điều đặc biệt của chương trình này là hỗ trợ các thành viên, các doanh nghiệp tham gia được hưởng những ưu đãi về thuế, cụ thể: 70%- 100% số thuế thu nhập của doanh nghiệp sẽ được cắt giảm trong vòng 5 - 10 năm nếu tuân thủ đầy đủ những điều kiện mà chương trình đưa ra. Ngoài ra, MSC còn thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế số thông qua những tiện ích nhằm hội tụ không chỉ các doanh nghiệp mà cả những sinh viên, học viên và các chuyên gia trong lĩnh vực thành những khối gắn với mục tiêu khuyến khích sự chia sẻ nguồn lực, hợp tác và tiếp cận các phương pháp hiệu quả.

Bên cạnh đó, Malaysia xây dựng “Chương trình Doanh nhân Công nghệ Malaysia” (MTEP - Malaysia Tech Entrepreneur Programme) nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. MTEP có thể trao cơ hội cho những doanh nhân mong muốn xây dựng các dự án kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ bằng cách cấp thị thực 1 năm đối với người chưa có kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp và 5 năm cho những người đã có kinh nghiệm. Trong kế hoạch tổng thể về kinh tế số, Malaysia nhấn mạnh vào phát triển thương mại điện tử bởi vì Malaysia xác định đó là hướng phát triển phù hợp trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP) đi vào thực hiện. Cùng với phát triển thương mại điện tử, Malaysia cũng thúc đẩy mạnh việc chuyển đổi số trong lĩnh vực dịch vụ công. Quốc gia này thành lập Bộ phận quản lý và hiện đại hóa hành chính Malaysia (MAMPU) trực thuộc Văn phòng Thủ tướng để chuyển đổi hoạt động cung cấp dịch vụ công thông qua đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Mục tiêu chính của MAMPU là phát triển dữ liệu số, đám mây và an ninh mạng trong việc cung cấp các dịch vụ công.

Malaysia có các chương trình bồi dưỡng nguồn nhân lực kỹ thuật số, như eUshawan với số lượng người tham gia trong các năm 2020, 2021 và 2022 lần lượt là 3.108; 51.203 và 102.269 người. Đây là chương trình đào tạo với mục đích truyền tải những giá trị, kiến thức về kinh doanh kỹ thuật số đến những người kinh doanh trẻ ở khu vực nông thôn, giúp họ ứng dụng kỹ năng về truyền thông, quảng cáo để tăng doanh số bán hàng và cải thiện thu nhập. Đồng thời, với nền tảng “eRezeki”, Chính phủ Malaysia cũng tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân Malaysia, từ những người thợ sửa ống nước đến những người phụ nữ nội trợ. Thông qua đây, họ có thể đăng ký để trở thành những công nhân kỹ thuật số, làm những nhiệm vụ dựa trên các kỹ năng kỹ thuật số đơn giản và kiếm thêm thu nhập mà không phải ra khỏi nhà(4).

Hàm ý chính sách cho Việt Nam

Xu hướng phát triển kinh tế số đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Những năm gần đây, các hoạt động kinh tế số đã có sự tăng trưởng nhanh chóng và được Chính phủ quan tâm, ưu tiên phát triển. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đề ra mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số chiếm tỷ lệ 20% GDP. Quyết định số 505/QĐ-TTg, ngày 22-4-2022, của Thủ tướng Chính phủ, lấy ngày 10-10 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số quốc gia. Theo đó, Việt Nam phấn đấu trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, mở rộng.

Chương trình Chuyển đổi số quốc gia nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với một số chỉ số cơ bản cụ thể, như: Chuyển đổi Số Quốc gia (NCSI – National Digitalization Score): Đây là một chỉ số kết hợp bao gồm: Đo lường mức độ phát triển của chuyển đổi số ở một quốc gia dựa trên các chỉ số con, như: hạ tầng kỹ thuật, môi trường kinh doanh và sự tham gia của người dân. Chuyển đổi Kỹ thuật số (DCI – Digital Readiness Index): Đánh giá khả năng của một quốc gia thích nghi với cuộc cách mạng số hóa. Nó tập trung vào yếu tố hạ tầng kỹ thuật số, sự thúc đẩy và môi trường kinh doanh. Phát triển Kỹ thuật số Thế giới (GDI – Global Digital Development Index): Chỉ số này đo lường mức độ phát triển kỹ thuật số ở các quốc gia dựa trên các yếu tố kỹ thuật số, kinh tế số và xã hội số. Kết nối toàn cầu (GCI – Global Connectivity Index): Chỉ số này tập trung vào mức độ kết nối mạng và hạ tầng kỹ thuật số của các quốc gia. Đổi mới kỹ thuật số (DMI – Digital Maturity Index): Đánh giá mức độ phát triển kỹ thuật số dựa trên khả năng vận dụng và thích nghi với các công nghệ số hóa trong nhiều lĩnh vực kinh tế và xã hội. Các chỉ số này giúp cung cấp cho cơ quan nhà nước và Chính phủ cái nhìn tổng quan về tình hình chuyển đổi số ở quốc gia và thúc đẩy sự cải thiện trong các lĩnh vực liên quan đến cuộc cách mạng số hóa.

Từ việc phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia châu Âu (Đức, Estonia), châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia) về phát triển kinh tế số (chiến lược, chính sách) trên đây, một số hàm ý chính sách có thể áp dụng cho Việt Nam trong giai đoạn 2023 - 2030 nhằm phát triển kinh tế số.

Thứ nhấthoàn thiện thể chế, chính sách về phát triển kinh tế số

Việt Nam cần chú trọng trước hết đến việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm tạo khuôn khổ cho phát triển kinh tế số trên địa bàn tỉnh, thành. Việc hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển kinh tế số giúp các địa phương nâng cao năng lực thu hút đầu tư công nghệ số trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số. Điều này bao gồm cả các chính sách tác động thuận lợi tới môi trường kinh tế kỹ thuật số, cũng như các chính sách thúc đẩy tiếp cận kết cấu hạ tầng và dịch vụ kỹ thuật số với chi phí hợp lý. Cải cách chính sách thuế và quy định sẽ giúp thu hút đầu tư vào nền kinh tế kỹ thuật số, hỗ trợ quá trình chuyển đổi ngành do kết quả của các mô hình kinh doanh mới.

Song song với hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển kinh tế số, Việt Nam cần xây dựng các kế hoạch, hướng dẫn rất cụ thể về chuyển đổi số cho các doanh nghiệp; các kế hoạch này cần gắn liền với các nguồn tài chính, kinh phí hằng năm để nhằm tạo sự thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận với kinh tế số.

Thứ haixác định rõ ngành, lĩnh vực đột phá để phát triển kinh tế số

Việt Nam cần căn cứ vào thế mạnh và đặc điểm của từng địa phương để xác định rõ những ngành, lĩnh vực đột phá để phát triển kinh tế số. Trước mắt, các tỉnh, thành phố nên tập trung phát triển các lĩnh vực kinh tế số giúp mở rộng thị trường, thúc đẩy tiêu dùng vì những lĩnh vực này giúp các địa phương tận dụng được những cơ hội của hội nhập quốc tế, đặc biệt là những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết (CPTPP, EVFTA, EVIPA) nhưng cũng không đòi hỏi trình độ công nghệ cao. Đồng thời, các tỉnh, thành phố nên phát triển những lĩnh vực nền tảng của kinh tế số, như hạ tầng số, tài nguyên số, dịch vụ số, thị trường số và có kế hoạch, chiến lược bài bản để tiếp cận, làm chủ những công nghệ quan trọng, cốt lõi của kinh tế số thông qua các chính sách hỗ trợ và trong hợp tác, thu hút đầu tư nước ngoài.

Thứ batuyên truyền nâng cao nhận thức toàn xã hội về nền kinh tế số

Việt Nam cần chú trọng hoạt động tuyên truyền nhằm tăng cường nhận thức của người dân và doanh nghiệp về kinh tế số, các lợi ích và thách thức đi kèm, với các nội dung cụ thể theo từng ngành, lĩnh vực, đặc biệt thông qua các cơ quan, doanh nghiệp và trường học. Đồng thời, các cơ quan báo chí, truyền thông cần định hướng dư luận, giúp cho các doanh nghiệp, người dân và toàn xã hội có nhận thức đúng về nền kinh tế số, qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất cho thích ứng xu hướng phát triển trên. Biện pháp này cũng đồng thời giúp tăng cường trách nhiệm của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân trong xây dựng kinh tế số.

Thứ tưchú trọng phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế số

Vấn đề này đã được các quốc gia phát triển chú trọng từ lâu, nhưng đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế số vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, Việt Nam cần dành nhiều nguồn lực hơn cho phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế số. Trong đó, nên tập trung phát triển, thu hút các chuyên gia về công nghệ số, các doanh nhân số thông qua các chính sách phù hợp. Đồng thời, cần định hướng phát triển giáo dục - đào tạo ở địa phương gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, sản xuất thông minh của nền kinh tế tri thức; đổi mới, hiện đại hóa chương trình đào tạo đại học, đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh, thành phố, chuyển mạnh từ đào tạo theo khả năng sang đào tạo theo nhu cầu xã hội.

Thứ nămtập trung đầu tư cơ sở vật chất trong quá trình phát triển kinh tế số

Cơ sở vật chất là nền tảng của quá trình phát triển kinh tế số. Do đó, Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật theo hướng làm chủ công nghệ lõi. Trung ương cần phối hợp với tỉnh, thành phố nhằm phát triển hạ tầng số quốc gia đồng bộ, rộng khắp bảo đảm đáp ứng yêu cầu kết nối, lưu trữ, xử lý dữ liệu, thông tin và các chức năng về giám sát, bảo đảm an ninh, an toàn mạng. Trong đó, cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xây dựng, phát triển hạ tầng băng thông rộng chất lượng cao. Nâng cấp mạng di động 4G, phát triển mạng di động 5G để có thể theo kịp xu hướng thế giới. Bảo đảm mọi tổ chức, cá nhân dễ dàng tiếp cận với internet tốc độ cao. Chiến lược cung cấp kết nối phải bao trùm nhất có thể, phổ cập internet cáp quang băng thông rộng tốc độ cao tới mỗi hộ gia đình, phổ cập dịch vụ điện toán đám mây tới mỗi cơ quan, doanh nghiệp, phổ cập công nghệ 4G, 5G tới mỗi người dân. Để có đủ nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng số, cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế có đủ năng lực tham gia đầu tư nhưng có cân nhắc với các phạm vi nhạy cảm liên quan đến an ninh quốc gia(5).

Cần nhanh chóng nâng cấp và hoàn thiện nền tảng số phục vụ việc đơn giản hoá thủ tục hành chính. Người dân, doanh nghiệp có thể sử dụng dịch vụ số để làm các thủ tục trực tuyến một cách thuận tiện, nhanh chóng, không cần sự hiện diện nếu pháp luật không yêu cầu. Xây dựng chính quyền điện tử sẽ giúp tăng hiệu quả dịch vụ công, đồng thời mở rộng thị trường cho sự phát triển của ngành dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông. Ngoài ra, cần chú trọng vấn đề bảo đảm an ninh mạng và hoạt động mạng bằng cách gia tăng số lượng máy chủ an toàn và phát triển khả năng bảo mật không gian mạng để giám sát các mối đe dọa trực tuyến. Các địa phương cần tăng cường hợp tác quốc tế về các luồng dữ liệu, bảo mật, giảm các rào cản đối với thương mại trực tuyến trong và ngoài nước cũng như các quyền và sự đòi hỏi của công dân liên quan đến quyền riêng tư và lưu trữ dữ liệu./.

Hoàng Xuân Lâm

Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu nghị

--------------------------

(1) Google, Temasek, Bain & Company: “E-Conomy SEA 2022 - Through the waves, towards a sea of opportunity”, 2022
(2) Nguyễn Mạnh Hùng: “Kinh nghiệm phát triển kinh tế số ở một số quốc gia và giá trị tham khảo với Việt Nam”, Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương ngày 4-2-2021, https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/kinh-nghiem-phat-trien-kinh-te-so-o-mot-so-quoc-gia-va-gia-tri-tham-khao-voi-viet-nam--%E2%80%8B.html
(3) Nguyễn Văn Thành: “Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nền kinh tế số và hàm ý chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Công Thương số 16 tháng 7-2020, https://tapchicongthuong.com.vn/bai-viet/kinh-nghiem-quoc-te-ve-phat-trien-nen-kinh-te-so-va-ham-y-chinh-sach-cho-viet-nam-74202.htm
(4) Đặng Thị Hoài: “Xây dựng và phát triển kinh tế số của một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước số 6-2021, https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/06/29/xay-dung-va-phat-trien-kinh-te-so-cua-mot-so-quoc-gia-tren-the-gioi-va-kinh-nghiem-cho-viet-nam/
(5) Xem Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: Phát triển nền kinh tế số nhìn từ kinh nghiệm một số nước châu Á và hàm ý đối với Việt Nam, Cổng thông tin kinh tế Việt Nam- VNEP, http://ciem.org.vn/Content/files/2018/vnep2018/C%C4%904%20-%20Ph%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n%20n%E1%BB%81n%20kinh%20t%E1%BA%BF%20s%E1%BB%91%20___-converted.pdf

Thanh Khê