Đó là thành tựu to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong tiến trình đổi mới tư duy về phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân vững bước vào thế kỷ mới, thế kỷ vươn mình phát triển thịnh vượng.

Ảnh minh họa - TL
Thành tựu về xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân có bước phát triển mạnh mẽ, giá trị gia tăng liên tục; sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam từ chỗ thiếu hụt triền miên, cung không đáp ứng cầu, đến nay không chỉ cung ứng đủ lương thực, thực phẩm, bảo đảm an ninh lương thực và ổn định kinh tế - xã hội, mà còn phục vụ đắc lực cho xuất khẩu. Nếu năm 1986, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành chỉ đạt 486 triệu USD, thì đến năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp của Việt Nam đạt 53,01 tỷ USD, gấp 109 lần so với năm 1986, trong đó một số mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD, như cà-phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm gỗ,... Nông sản Việt Nam đã có mặt ở 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường khó tính, như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU),... Tỷ lệ che phủ rừng tăng lên và giữ ổn định ở mức 42,02%, cao hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới (khoảng 29%). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Nông nghiệp có bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm hơn gần hai năm so với kế hoạch đề ra, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân”[1].
Đến nay, cả nước có 78% xã đạt chuẩn nông thôn mới, 283 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới; 5 tỉnh được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Môi trường nông thôn khang trang, sạch đẹp, kết cấu hạ tầng hiện đại; hệ thống điện, đường, trường, trạm, nước sạch, các thiết chế văn hóa, y tế, giáo dục cơ bản đáp ứng nhu cầu của nhân dân, kể cả vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Thu nhập, đời sống của người dân nông thôn tăng liên tục, nếu năm 1986 thu nhập bình quân đầu người của dân cư nông thôn đạt khoảng 1.600 đồng/người/tháng, thì năm 2023 đạt khoảng 4,17 triệu đồng/người/tháng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm liên tục, nếu năm 1986, tỷ lệ hộ nghèo là trên 50%, thì đến năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều chỉ còn 5,71%”[2]. Chỉ số phát triển con người tăng liên tục suốt mấy thập niên qua, từ 0,561 năm 1985 đến 0,726 năm 2022, đứng thứ 107 trên 193 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Sản xuất nông nghiệp vẫn ở quy mô hộ nhỏ, lẻ, thiếu liên kết nên khó cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay, mới chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, trong đó, doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm khoảng 92%, đồng nghĩa khó có khả năng chi phối chuỗi giá trị ngành hàng và bất cập trong kết nối cung cầu nông sản. Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp được hưởng các chính sách ưu đãi về sử dụng đất, thuế nhưng thực tế các chính sách này vẫn chậm đi vào cuộc sống. Các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp đã và đang gặp không ít khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng và nhiều thủ tục liên quan đến đất đai, vay vốn, xây dựng, môi trường, vẫn còn là những điểm nghẽn làm mất nhiều thời gian. Việt Nam có đất nông nghiệp, tài nguyên nước và tài nguyên biển dồi dào với sự đa dạng sinh học phong phú là những lợi thế tự nhiên đã được sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng, nhưng những tổn hại về môi trường ước tính ở mức từ 4% đến 8% GDP mỗi năm. Nước ta đang chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu và thiên tai xảy ra trên cả các vùng kinh tế - xã hội.
Tuy vậy, phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh là khát vọng của hội viên, nông dân Việt Nam, nhưng phần lớn hộ nông dân còn thu nhập thấp, chưa có kỹ năng nghề và chưa thích nghi với thị trường cạnh tranh, nhất là 53 dân tộc thiểu số mới có 6,2% số người lao động từ 15 tuổi trở lên và có 5,9% số người lao động nữ từ 21 tuổi trở lên được đào tạo nghề.
Giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế và đầu tư công, phát triển lành mạnh các loại thị trường; nhất là thị trường các yếu tố sản xuất, thị trường tài chính tiền tệ, thị trường bất động sản, đất đai, tài nguyên. Trong đó, “thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”[3].
Trong bước chuyển đổi này, cần thấm nhuần sâu sắc và thực hiện thật tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Công nông trí thức hóa. Trí thức công nông hóa. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri thức của mình, trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông”[4]. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Cơ cấu lại kinh tế vùng, đổi mới thể chế liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng, phát huy vai trò các vùng kinh tế động lực và các đô thị lớn, quan tâm phát triển các vùng còn khó khăn, thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng”[5]. Chủ trương đó yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên phải đổi mới tư duy từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh doanh nông nghiệp với vai trò “nòng cốt” của doanh nghiệp nông nghiệp với công nghệ mới, hiện đại và cơ chế, chính sách tương thích nhất để hỗ trợ, khuyến khích tập trung đất đai, đầu tư khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản gắn với thị trường. Đây là vấn đề mấu chốt trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững của nước ta.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân thông minh, Đảng ta chỉ rõ: “Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng
công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương”[6].
Ở nước ta, có khoảng 80% diện tích tự nhiên là nông thôn với ba phần tư là miền núi, hệ thống sông đều chạy từ phía Tây sang phía Đông, rất đa dạng về đất đai và thổ nhưỡng, về kỹ thuật canh tác và quản lý sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp của người nông dân có thể phân định theo hai trình độ sau: ở trình độ thấp, sản xuất nông nghiệp chủ yếu phục vụ cho gia đình của mỗi người nông dân, gọi là nông nghiệp thuần nông hay nông nghiệp sinh nhai; ở trình độ cao, sản xuất nông nghiệp có mức độ cơ giới hóa cao, được chuyên môn hóa trong tất cả các khâu sản xuất, bao gồm cả việc sử dụng máy móc, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, lai tạo giống, nghiên cứu các giống mới, hướng đến tăng thu nhập từ các sản phẩm nông nghiệp và sản xuất đầu ra chủ yếu phục vụ mục đích thương mại, làm hàng hóa bán ra thị trường hay xuất khẩu. Theo sự phân định đó, hiện nay hằng năm, Hội Nông dân Việt Nam có khoảng 3,5 triệu hộ hội viên đạt danh hiệu nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp, nhưng mới có khoảng 30% số hội viên biết kinh doanh nông nghiệp. Do đó, để phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, cũng như ở nhiều nước, Việt Nam phải xây dựng nền kinh tế trong đó coi nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng có vai trò làm “trụ đỡ” cho nền kinh tế với nhiều chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, diêm nghiệp.
Trong Chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam, cần hướng tới mục tiêu tăng trưởng từ 3% - 3,5%/năm với giá trị xuất khẩu đến năm 2025 và những năm tiếp theo đạt 50 tỷ USD và xây dựng những vùng nông thôn định canh, định cư giàu có, tối thiểu 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có ít nhất 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu thực sự đáng sống. Vì vậy, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung nghiên cứu thể chế hóa chủ trương của Đảng về: “Có chính sách đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Thúc đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao. Xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi ngành nghề do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[7]. Điều này giúp các chi hội trưởng chi hội nông dân nghề nghiệp và giám đốc hợp tác xã có đủ năng lực trí tuệ và kỹ năng trong thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có và nông thôn văn minh, hiện đại.
Thứ ba, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định, phải “Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị”[8] để nâng cao và thực hiện đồng bộ mối quan hệ liên kết sáu nhà (nhà nông, nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà ngân hàng, nhà khoa học, nhà phân phối) nhằm phát huy cao độ vai trò chủ thể của nông dân.
Thực hiện chủ trương này, các nhà quản lý, điều hành phải phát huy vai trò của mình trong việc đáp ứng sự mong đợi của nông dân, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ chính sách và tài chính, bổ sung những gì còn thiếu để nông dân tiếp cận các kiến thức, kỹ năng sản xuất nông nghiệp và tham gia thị trường. Hiện nay, nông nghiệp không thể thiếu doanh nghiệp làm khâu kết nối sản xuất với thị trường. Thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp là tất yếu. Muốn vậy, các chính sách khuyến khích cần cụ thể, dài hạn, khơi nguồn sáng tạo, tạo được sức hấp dẫn bằng các cơ chế, chính sách thiết thực, quy định pháp lý rõ ràng về phát huy vai trò của nông hộ trong hợp tác xã và doanh nghiệp để tích tụ, tập trung đất đai, đầu tư khoa học, công nghệ, nâng cao năng suất lao động, phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn gắn với thị trường.
Cần tập trung đào tạo các kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới và kỹ năng quản trị kinh doanh cho hội viên nông dân, đặc biệt lấy các nhà nông thành công trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp làm gương và làm theo phương châm “nông dân dạy nông dân” bằng phương pháp dạy học thực hành theo quy trình sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi mà các nhà khoa học của nhà nông đóng vai trò như “thư viện của nông dân”. Có hình thức tổ chức, tập hợp các nhà khoa học nông nghiệp và tiếp tục tôn vinh danh hiệu “Nhà khoa học của nhà nông” để mang đến cho hội viên, nông dân không chỉ niềm tự hào mà quan trọng hơn là những tâm đức và kiến thức quý báu của họ. Hỗ trợ hội viên, nông dân các trang thiết bị thông tin, kết nối, liên kết, hợp tác theo chuỗi sản xuất gắn với thị trường để làm tốt các khâu từ sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản.
Thứ tư, đẩy mạnh Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; xây dựng đời sống văn hóa kiểu mẫu với hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ và bảo vệ môi trường sinh thái. Cùng với phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nhiều xu hướng tiêu cực tác động vào xã hội Việt Nam nói chung, nông thôn nói riêng, đã và đang nảy sinh những vấn đề lớn trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị tinh thần, chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Cùng với đó, cơ cấu xã hội biến đổi mạnh mẽ trên cả mặt tích cực và tiêu cực, vốn tự nhiên suy giảm liên tục và môi trường ngày càng dễ bị tổn thương bởi thiên tai và biến đối khí hậu ngày càng tăng lên.
Trước tình hình nhiệm vụ mới, Hội Nông dân Việt Nam phát huy vai trò trung tâm và nòng cốt trong vận động hội viên, nông dân xây dựng người nông dân mới giàu lòng yêu nước, đoàn kết, trách nhiệm, trọng nghĩa tình và có trình độ chuyên môn và kỹ năng sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Đây cũng là trọng tâm của Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu luôn ổn định, văn minh, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc và kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ. Cán bộ, hội viên, nông dân phải đi đầu đấu tranh ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức và từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam, nêu cao vai trò và nhiệm vụ trong cải tạo cảnh quan nông thôn và sản xuất nông sản thực phẩm an toàn, giữ vững an ninh, trật tự và môi trường xã hội nông thôn.
Cán bộ, hội viên, nông dân chủ động, tích cực tham gia sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là sử dụng đất và nước tiết kiệm nhất, giám sát và kiến nghị xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường, ngăn chặn suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và thiên tai, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp xanh và nông nghiệp tuần hoàn bằng công nghệ hiện đại, tiệm cận gần hơn với nền nông nghiệp thông minh có năng suất và chất lượng cao để thực hiện khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao. Hội Nông dân và người nông dân thấy rõ ràng hơn tác động của suy thoái môi trường đến người dân, mong muốn hiện thực hóa chủ trương “Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững” theo tinh thần Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3-6-2013, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI, “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” và “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg, ngày 25-9-2012, của Thủ tướng Chính phủ, thành các hành động cụ thể và kết quả hữu hình bằng cả ba yếu tố tầm nhìn, năng lực và động lực.
Thứ năm, tiếp tục hướng dẫn nông dân nghiệp vụ xây dựng dự án phát triển nông nghiệp hàng hóa, vay và sử dụng vốn vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Quỹ Hỗ trợ nông dân theo hình thức nhóm hộ nông dân gắn chặt với xây dựng tổ hội nông dân, chi hội nông dân nghề nghiệp và hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo phương thức “5 tự” (tự giác, tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự chịu trách nhiệm) và “5 cùng” (cùng ngành nghề - lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, cùng mối quan tâm, cùng có sự chia sẻ, cùng chịu trách nhiệm, cùng hưởng thụ).
Như vậy, 8 triệu hộ nông dân trong đó có 3,5 triệu hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp mới phát triển được vùng sản xuất tập trung chuyên canh, thâm canh, gắn với cơ sở công nghiệp chế biến để đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta đạt được cả “ba cao” về năng suất, chất lượng, giá trị theo chỉ đạo của Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại./.
BÙI TIẾN DŨNG
Nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh Thái Bình
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQG-ST, H..2021, tr.61, 62.
[2] Quyết định số: 134/QĐ-BLĐTBXH, ngày 31-1-2024, của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, công bố kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2023 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQG-ST, H..2021, tr.124.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 7, Nxb. CTQG-ST, Hà Nội, 2011, tr.73.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQG-ST, H..2021, tr.122.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQG-ST, H..2021, tr.124.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQG-ST, H..2021, tr.137.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQG-ST, H..2021, tr.124.