30/01/2025 lúc 12:36 (GMT+7)
Breaking News

Ngoại giao kinh tế và Kinh tế hội nhập của Việt Nam 2024 – Một năm nhìn lại

Năm 2024, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột vũ trang và các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng khó đoán định, tác động sâu sắc đến hòa bình, an ninh, phát triển toàn cầu… Năm 2025 dự báo tình hình chung cũng vẫn tiếp tục có những diễn biến khó lường và còn có tác động bất lợi đến sự phát triển của các nước đang phát triển.

Trong điều kiện đó, để giữ được nhịp độ phát triển về kinh tế, công tác đối ngoại ngày càng có vai trò quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước.

Ảnh minh họa - TL

Quá trình toàn cầu hóa đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt liên quan đến việc phát huy và đổi mới hệ thống thương mại đa phương, cụ thể hóa các định hướng, sáng kiến hợp tác thương mại và đầu tư mới, hài hòa lợi ích giữa các nước lớn, và giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã chứng kiến cạnh tranh chiến lược căng thẳng, phức tạp giữa các nước lớn, cùng với những nỗ lực thúc đẩy liên kết kinh tế ở khu vực (gắn với thảo luận Khung khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF), mở rộng Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), nâng cấp một số hiệp định thương mại tự do (FTA) hiện có của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)…). Các công nghệ mới, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), đã có những bước đột phá thần tốc, đồng thời đặt ra các vấn đề hợp tác quốc tế, kể cả cạnh tranh chiến lược, giữa các nước trong việc xây dựng khung quản trị phù hợp.

Cơ hội và thách thức đan xen

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực thực hiện các giải pháp điều hành phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở theo dõi, đánh giá tình hình, có những điều chỉnh linh hoạt và chỉ đạo tương đối sát để tháo gỡ vấn đề ở một số lĩnh vực (tín dụng, bất động sản…). Công tác cải cách thể chế kinh tế có những chuyển biến quan trọng, đặc biệt đối với việc hoàn thiện khung chính sách cho kinh tế số và kinh tế tuần hoàn; hoàn thiện thể chế liên kết vùng; hiện thực hóa một số cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển kinh tế địa phương; chuẩn bị cho việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu… Đó cũng là một trong những yếu tố quan trọng giúp thúc đẩy ngoại giao kinh tế và phát triển kinh tế hội phập.

Công tác ngoại giao kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai chủ động, tích cực, bài bản, toàn diện, tích cực tìm kiếm và huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ với nỗ lực cải thiện mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Nhờ đó, Việt Nam đã xử lý tương đối hiệu quả tác động của các diễn biến trên thị trường thế giới đối với ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn, đồng thời tiếp tục duy trì, củng cố niềm tin của cộng đồng nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Song song với đó là yêu cầu phải tiếp tục triển khai quyết liệt, chặt chẽ, thận trọng các chính sách, cải cách kinh tế vĩ mô nhằm duy trì và củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định hệ thống tài chính. Tiếp tục nâng cao năng lực phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô; cảnh báo sớm các căng thẳng trên thị trường tiền tệ và rủi ro lây lan từ các biến động lớn của thị trường tiền tệ - tài chính quốc tế cũng là một yếu tố rất quan trọng…

Trong năm 2024 và tiếp đến là năm 2025, Việt Nam tiếp tục tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà trọng tâm là các FTA. Cách tiếp cận của Việt Nam được định hình rõ nét hơn, hướng tới thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cải thiện mức độ độc lập, tự chủ, năng lực nội tại và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Quan hệ hợp tác với đối tác được tăng cường, qua đó góp phần củng cố vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và phát huy đóng góp của Việt Nam vào quá trình định hình các thể chế đa phương và song phương gắn với nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa - xã hội, cũng như các vấn đề phát triển bền vững.

Tất nhiên trong hành trình đó, khó khăn, thách thức là điều không thể tránh khỏi. Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, có khát vọng và mục tiêu phát triển với tầm nhìn 2045, và lại ở một khu vực châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động. Chính vì vậy, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn và an sinh xã hội chính là những nền tảng không thể thiếu. Song, Việt Nam vẫn phải phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu đề ra, trong đó có thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có chất lượng, có tính bền vững. Để thực hiện yêu cầu ấy, Việt Nam phải có đánh giá thấu đáo, toàn diện hơn về nội lực của nền kinh tế. Nội lực ấy không chỉ giới hạn ở lượng tiền, vàng và các tài sản khác mà người dân Việt Nam đang nắm giữ. Thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng. Việt Nam đã sớm có giải pháp nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI, với Quyết định số 127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ từ năm 2021. Tính toán của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho thấy, nếu xóa bỏ hoàn toàn khoảng cách với mức trung bình của OECD về các rào cản thương mại và đầu tư, Việt Nam có thể tăng GDP bình quân đầu người thêm 1% sau 01 năm, và 7,3% sau 10 năm tiến hành cải cách…

Thành quả quan trọng

Liên quan đến kinh tế hội nhập trong năm 2024, có thể nêu một số kết quả cụ thể đạt được, là minh chứng cho những nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong nước. Theo đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký 10 tháng đạt gần 27,3 tỷ USD, tăng 1,9%; vốn FDI thực hiện đạt khoảng 19,6 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ, cao nhất trong 05 năm qua. Các tổ chức quốc tế uy tín tiếp tục đánh giá tích cực về triển vọng phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Xuất khẩu gạo trong 10 tháng đạt 7,8 triệu tấn với kim ngạch hơn 4,86 tỷ USD, tăng 10,2% về sản lượng và 23,5% về giá trị so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 10 tăng 7,1% so với cùng kỳ, tính chung 10 tháng tăng 8,5%. Du lịch phục hồi mạnh; khách quốc tế đến nước ta 10 tháng đạt khoảng 14,1 triệu lượt người, tăng 41,3% so với cùng kỳ. Trong tháng 10, có 22,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tính chung 10 tháng là 202,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 9,1% so với cùng kỳ…

Nhìn tổng thể, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã đạt được những thành quả tiêu biểu; cụ thể là:

Thứ nhất, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật: Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, là thành viên tích cực của gần 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Việt Nam là một trong 40 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới, top 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại; top 15 nền kinh tế hàng đầu về thu hút đầu tư nước ngoài, top 46 nước đứng đầu thế giới về Chỉ số đổi mới sáng tạo. Thời gian qua, Việt Nam duy trì được tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam bình quân 3 năm (2021 – 2023) đạt 5,2%/năm (là mức cao của khu vực và thế giới); 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tụctăngtrưởng 6,42%, cao hơn nhiều cùng kỳ năm trước và dự báo tiếp tục xu hướng tích cực hơn trong thời gian tới.

Kết quả đó có được là nhờ thời gian qua, hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu, đặc biệt thông qua việc ký kết và tham gia các Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Chúng ta hiện đã ký kết 16 FTA và đang đàm phán 3 FTA, tổng cộng đã và đang tham gia 19 FTA, qua đó, chúng ta có có trên 60 đối tác FTA, phủ rộng khắp các châu lục với tổng GDP chiếm gần 90% GDP toàn cầu, nâng tầm vị thế của Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong mạng lưới quan hệ đối tác của các QG trên thế giới.

Thứ hai, quan hệ hợp tác kinh tế thương mại của Việt Nam với khu vực châu Âu ngày càng được tăng cường với trọng tâm là FTA Việt Nam - Liên minh châu: EU hiện là một trong những đối tác đầu tư và thương mại hàng đầu của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng tăng. Việt Nam và Liên minh châu Âu đã ký kết Hiệp định khung về hợp tác (FCA) vào năm 1995 là văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên đặt nền móng cho quan hệ Việt Nam - EU phát triển ngày càng mạnh mẽ. Trong gần 30 năm qua, quan hệ Việt Nam - EU đã có những bước tiến vượt bậc.

Qua quá trình hợp tác cùng phát triển, EU không những đã mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn góp phần thúc đẩy sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, mà còn giúp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đa dạng hóa quan hệ kinh tế với các đối tác khác. EU đồng thời hỗ trợ Việt Nam hoàn thiện thể chế và hội nhập quốc tế…

Với vai trò là động lực quan trọng cho phát triển đất nước nhanh và bền vững, ngoại giao kinh tế thời gian qua tiếp tục được đẩy mạnh. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, công tác ngoại giao kinh tế và hội nhập kinh tế của nước ta đã được triển khai đồng bộ, toàn diện, từng bước trở thành nhiệm vụ cơ bản, trung tâm, đóng góp tích cực vào các kết quả phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Trong đó đã đạt được 3 kết quả nổi bật sau đây:

1. Việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện ngoại giao kinh tế được triển khai kịp thời, bài bản hơn. Chính phủ lần đầu tiên ban hành Chương trình hành động về ngoại giao kinh tế để thực hiện Chỉ thị 15 của Ban Bí thư; các bộ, ngành, địa phương tích cực ban hành kế hoạch hành động để cụ thể hóa Chỉ thị 15 của Ban Bí thư và Chương trình hành động của Chính phủ...

2. Ngoại giao kinh tế tiếp tục đóng góp quan trọng trong duy trì cục diện đối ngoại thuận lợi cho phát triển đất nước. Nội dung kinh tế tiếp tục là trọng tâm trong gần 60 hoạt động đối ngoại Cấp cao từ đầu năm 2023 đến nay với nhiều cam kết, thỏa thuận hợp tác kinh tế được ký kết.

Quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế được mở rộng; các khuôn khổ quan hệ với 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện được củng cố, mở rộng, nâng tầm, nâng cấp (từ nửa cuối năm 2023 đến nay, ta đã nâng tầm, nâng cấp quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện với 4 đối tác lớn là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Australia với nhiều nội hàm hợp tác quan trọng như khoa học công nghệ, bán dẫn, ODA thế hệ mới, kinh tế xanh, kinh tế số…).

Ngoại giao kinh tế đóng góp trực tiếp vào các kết quả tích cực của kinh tế đối ngoại và hội nhập, liên kết kinh tế quốc tế. Ngoại giao kinh tế đã tích cực hỗ trợ xúc tiến, quảng bá, tháo gỡ rào cản thương mại, thúc đẩy các hướng đi mới như phát triển ngành Halal, qua đó mở rộng thị trường cho các ngành, lĩnh vực, địa phương và doanh nghiệp.

Giải pháp thúc đẩy phát triển

Tuy nhiên, trong công tác triển khai kinh tế hội nhập thời gian qua, vẫn còn một số hạn chế. Trong đó có việc cụ thể hóa và tận dụng các khuôn khổ quan hệ đã được thiết lập, nâng cấp và cam kết, thỏa thuận đạt được trong thời gian qua cũng còn hạn chế, có độ trễ trong triển khai; Việc giải quyết các vướng mắc tồn đọng với một số đối tác còn kéo dài, chưa dứt điểm, tác động không thuận đến quan hệ kinh tế thương mại, thu hút đầu tư, vận động ODA… Việt Nam cũng đang trong quá trình nghiên cứu xây dựng các chính sách, cơ chế ưu đãi đặc thù để thu hút đầu tư, phát triển một số ngành chiến lược. Ngoài ra, sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp đôi lúc chưa đồng bộ; tính kết nối, liên kết vùng giữa các địa phương chưa cao….

Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm được rút ra, trong năm 2024 và thời gian tiếp theo ngoại giao kinh tế được thực hiện theo 5 trọng tâm, bao gồm:

1. Thúc đẩy triển khai quyết liệt các cam kết, thỏa thuận đã đạt được; tận dụng tối đa các cơ hội từ việc nâng tầm, nâng cấp, mở rộng quan hệ với các đối tác và chuyển hoá thành các dự án, có kết quả cụ thể. Tổ chức tốt các hoạt động đối ngoại Cấp cao và các cấp trong năm 2024 với nội dung kinh tế là trọng tâm nhằm tiếp tục làm sâu sắc hợp tác kinh tế, mở ra các khuôn khổ hợp tác mới, tháo gỡ dứt điểm vướng mắc tồn đọng với các đối tác, góp phần củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi cho phát triển.

2. Tăng tốc thúc đẩy làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới. Củng cố xuất khẩu sang các thị trường chủ chốt; mở ra các thị trường mới, tiềm năng; đẩy nhanh đàm phán, ký kết các FTA mới. Đẩy mạnh truyền tải thông điệp, cam kết mạnh mẽ của Chính phủ về bảo đảm môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Tập trung triển khai hợp tác đầu tư, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực trong các lĩnh vực bán dẫn, AI, hydrogen… Thu hút các nguồn tài chính xanh phục vụ chuyển đổi năng lượng, phát triển bền vững, nhất là Kế hoạch thực hiện JETP. Quảng bá, xúc tiến du lịch có trọng tâm, trọng điểm…

3. Đẩy mạnh hội nhập, liên kết kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế đất nước, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, cân bằng và hài hoà trong ứng xử quốc tế. Nghiên cứu và xác định định rõ các lợi ích, trọng tâm cần thúc đẩy trong các cơ chế, chú trọng hợp tác thực chất, hiệu quả và thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển. Chuẩn bị sớm cho việc đăng cai các sự kiện đa phương lớn. Tham mưu các bước đi phù hợp của Việt Nam và tận dụng hiệu quả các sáng kiến mới (IPEF, BRI, Global Gateway, AZEC, ISA…). Hỗ trợ nâng cao năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của địa phương, doanh nghiệp.

4. Nâng cao tính nhạy bén và chất lượng của công tác nghiên cứu, tham mưu phục vụ điều hành kinh tế - xã hội của Chính phủ. Trọng tâm là tình hình kinh tế thế giới, khu vực; kinh nghiệm các nước trong xử lý các khó khăn, thách thức của nền kinh tế, phát triển các lĩnh vực bán dẫn, AI, hydrogen xanh…

5. Đổi mới mạnh mẽ trong phối hợp triển khai ngoại giao kinh tế, như thiết lập các cơ chế phối hợp liên ngành và nâng cao hiệu quả triển khai các cơ chế đã có để tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy hiệu quả các nhiệm vụ ngoại giao kinh tế.

TS. Lưu Văn Vinh

...