
Ảnh minh họa - VNHN
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng để cung cấp cho sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh (Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 111/2015/NĐ-CP).
Với mục tiêu hỗ trợ các tổ chức, cá nhân nâng cao năng lực trong hoạt động phát triển CNHT, những nhiệm vụ hỗ trợ cụ thể bao gồm: Hỗ trợ nâng cao năng lực doanh nghiệp gồm: Quản trị doanh nghiệp; quản trị sản xuất; tạo liên kết và kết nối các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ với khách hàng, trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho các tập đoàn đa quốc gia và các nhà sản xuất công nghiệp hỗ trợ khác ở trong và ngoài nước; xúc tiến, hỗ trợ thị trường tiêu thụ sản phẩm CNHT. Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng và vật liệu. Phổ biến nhận thức, cung cấp thông tin về các chính sách, thị trường và năng lực các ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, thông qua các hình thức như: Tổ chức hội thảo, xuất bản các bản tin, ấn phẩm và quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng khác; Hợp tác quốc tế trong phát triển CNHT; xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực CNHT. Hỗ trợ xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển phù hợp, hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực; Xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ trong và ngoài nước trên trang thông tin điện tử chuyên về CNHT.
Các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi với CNHT là: Các dự án đầu tư mới, dự án mở rộng và đổi mới công nghệ có ứng dụng thiết bị mới, quy trình sản xuất mới, sản xuất sản phẩm với năng lực sản xuất tăng ít nhất 20%...
Kết quả đạt được và thực trạng của ngành CNHT
Kết quả đạt được: Thời gian qua, ngành CNHT đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cụ thể:
Lĩnh vực chế biến, chế tạo, trong đó có công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí luôn nắm vị trí dẫn dắt, đầu tàu cho tăng trưởng sản xuất công nghiệp nói chung. Hoạt động công nghiệp hỗ trợ ngày càng phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước, tỷ lệ nội địa hóa được nâng cao trong nhiều ngành sản xuất như ngành dệt may – da giầy đạt 45-50%, cơ khí chế tạo đạt hơn 30%. Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ trong nước đã nâng cao trình độ tổ chức sản xuất, tăng năng suất và hiệu quả sản xuất, cắt giảm chí phí giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, trở thành nhà cung ứng trực tiếp với các nhà sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và các tập đoàn đa quốc gia, tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Về công nghiệp cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp, đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã sản xuất được nhiều loại máy gieo trồng và thu hoạch, góp phần nâng cao mức độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Trên 90% số máy xay xát lúa, đánh bóng gạo, máy sấy là do các doanh nghiệp trong nước chế tạo đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đã được xuất khẩu đi các nước ASEAN, Châu Mỹ, Châu Phi. Ngoài ra, còn có nhiều dây chuyền thiết bị chế biến cà phê và hạt điều; một số sản phẩm đang được cung ứng cho các nhà máy cơ khí, nhất là sản xuất ôtô trong Vinfast, THACO...
Một số hạn chế:
Hiện nay, ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam có khoảng 1.500 doanh nghiệp, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực cơ khí, điện và điện tử, nhựa, cao su và hóa chất. Tuy nhiên, thời gian qua, hoạt động của doanh nghiệp suy giảm mạnh khi doanh thu đi xuống, mất đơn hàng ở nhiều thị trường và đối mặt hai trở ngại lớn về vốn và chi phí. Việc triển khai các chính sách ưu đãi để phát triển ngành CNHT, nhất là phục vụ trong chế biến nông, lâm, thủy sản, phát triển nông nghiệp, nông thôn, còn hạn chế. Nhất là trong bối cảnh doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nước ngoài ngay trên thị trường trong nước.
Mặt khác, nguồn lực đầu tư của nhà nước từ trung ương đến địa phương vừa ít, vừa khó tiếp cận, lại vừa chồng chéo với nhau. Một số điều kiện để hưởng ưu đãi trong quy định cũng ngặt nghèo, chưa thật sự phù hợp, khiến cho các doanh nghiệp rất khó tiếp cận và khó đáp ứng được yêu cầu để hưởng chính sách. Một hạn chế khác trong chính sách thu hút FDI của Việt Nam là chưa ràng buộc và cũng chưa khuyến khích để các doanh nghiệp FDI tăng tính lan tỏa cho các doanh nghiệp trong nước.
Giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT
- Để ngành CNHT Việt Nam tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, thời gian tới, bên cạnh việc thúc đẩy tăng cường liên kết, nâng cao sự vững chắc trong chuỗi cung ứng cho những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như: dệt may, da giày, điện tử… , cần sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật làm nền tảng và tạo động lực phát triển công nghiệp; đặc biệt là Luật Công nghiệp trọng điểm, khi luật được ban hành sẽ giúp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng như ngành CNHT có được một hệ thống pháp lý vững chắc hơn để xây dựng các văn bản dưới luật phù hợp. Cần rà soát lại hệ thống pháp luật để cơ chế, chính sách đã được ban hành phải đi vào cuộc sống, doanh nghiệp có thể hấp thụ và từ đó lớn lên. Bên cạnh đó, các địa phương cũng phải dành điều kiện thuận lợi nhất có thể để giúp cho những doanh nghiệp này có mặt bằng, hạ tầng và sự hỗ trợ về nguồn vốn, đào tạo nhân lực… Đặc biệt, phải sửa đổi lại Luật Đầu tư nước ngoài và một số luật có liên quan để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó, cần có cơ chế ràng buộc chứ không phải khuyến khích việc hợp tác với doanh nghiệp CNHT trong nước.
- Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách trên phạm vi rộng và tăng cường chương trình hoạt động hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam. Đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng, hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là phát huy hiệu quả của các trường đại học, cao đẳng thuộc ngành công thương và một số trường nghề ở trong ngành lao động cũng như là ngành giáo dục.
- Cần thay đổi nhận thức và tư duy của các cấp quản lý và cộng đồng doanh nghiệp cũng như toàn xã hội về phát triến CNHT trong bối cảnh mới trong nước và quốc tế, nhằm thích ứng và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.
- Tiếp tục phát triển và tăng cường năng lực KH&CN của Việt Nam, trong đó chú trọng tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng thành tựu của CMCN 4.0, đi tắt đón đầu cho phát triển nền kinh tế nói chung và sản phẩm, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nói riêng, nhằm tạo những đột phá mới trong việc nâng cao năng lực sản phẩm CNHT tham gia chuỗi giá trị toàn cầu hàng CBCT.
- Cần mở rộng sự liên kết trong đào tạo giữa các trường đại học trong nước và các trường đại học có uy tín trên thế giới. Đồng thời, đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo từ các trường đại học cho đến các trường dạy nghề nhằm nâng cao dần chất lượng của những người lao động trong tương lai. Song song với đó, đẩy mạnh sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm CNHT.
- Để thúc đẩy CNHT phát triển, Nhà nước cũng cần quan tâm hiện đại hóa kết cấu hạ tầng bởi chỉ trên cơ sở hiện đại hóa kết cấu hạ tầng mới đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để sản xuất các sản phẩm hỗ trợ./.
Ths Hoàng Văn Thuận