Tham dự Hội nghị gồm các đồng chí: Đại tướng Tô Lâm - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh; Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Nguyễn Đình Trung đồng chủ trì. Đặc biệt là sự góp mặt của các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các bộ, ngành liên quan…
Sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết số 10 và 10 năm thực hiện Kết luận số 12, các nhiệm vụ, giải pháp, mục tiêu, chỉ tiêu đề ra cơ bản được hoàn thành, qua đó đã khẳng định Nghị quyết số 10 và Kết luận số 12 của Bộ Chính trị đã thực sự đi vào cuộc sống. Kinh tế vùng Tây Nguyên đã đạt được kết quả khá toàn diện, quy mô kinh tế được mở rộng; chuyển dịch cơ cấu đúng định hướng, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng dịch vụ; các ngành dịch vụ du lịch có bước phát triển khá. Vùng Tây Nguyên dần trở thành vùng du lịch sinh thái – văn hóa có sức hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước.
Phát biểu báo cáo tại Hội nghị, Đồng chí Nguyễn Đình Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk cho biết: sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 10 và Kết luận số 12, được sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của TW, cùng với sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và sự ủng hộ của nhân dân trên địa bàn tỉnh, KT-XH của tỉnh Đắk Lắk đã có những chuyển biến quan trọng. Cụ thể, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, giai đoạn 2002-2020, tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 13,8%/năm; quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, tăng gấp 11 lần, từ 5.600 tỷ đồng năm 2002 lên 61.800 tỷ đồng vào năm 2020.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng định hướng, từng bước giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của các bộ phận dân cư từng bước được cải thiện, GRDP bình quân đầu người tăng nhanh, năm 2020 đạt 53,98 triệu đồng/người, gấp 18,4 lần năm 2002. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng đều qua các năm, năm 2020 đạt 8.294 tỷ đồng, cao gấp 18,76 lần so với năm 2002. Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt cao và tăng qua các năm. Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đạt tốc độ tăng trưởng khá, giai đoạn 2002-2020, tỉnh Đắk Lắk có trên 13.300 doanh nghiệp dân doanh thành lập mới với số vốn đăng ký hoạt động hơn 89.500 tỷ đồng.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đình Trung cũng nêu lên một số tồn tại, hạn chế của Đắk Lắk trong quá trình thực hiện triển khai Nghị quyết số 10 và Kết luận số 12 như: tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, phát triển còn thiếu tính ổn định và bền vững. Kết cấu hạ tầng KT-XH chưa đồng bộ, nhất là giao thông kết nối. Thu hút đầu tư còn hạn chế, đặc biệt là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, nhất là đối với các hộ nghèo đồng bào DTTS. Phát triển văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập. An ninh, chính trị, trật tự xã hội còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định; tình hình tranh chấp, khiếu kiện nhất là liên quan đến các nông, lâm trường và đồng bào DTTS, gây mất an ninh trật tự còn diễn ra; việc triển khai Kết luận số 60-KL/TW ngày 27/11/2009 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển TP.Buôn Ma Thuột chưa đạt được kỳ vọng như mong đợi, TP.Buôn Ma Thuột vẫn chưa thực sự đóng vai trò là đô thị trung tâm mang đặc sắc riêng của vùng Tây Nguyên; chưa thực sự trở thành một cực tăng trưởng với những tác động lan tỏa tích cực tới các tỉnh khác trong vùng.
Từ thực tế trên, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đình Trung đã đề xuất một số ý kiến, kiến nghị như: đề nghị Trung ương xem xét, sớm ban hành Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Buôn Ma Thuột theo Kết luận số 67 của Bộ Chính trị; quan tâm đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là hạ tầng giao thông kết nối của Đắk Lắk, cũng như vùng Tây Nguyên nói chung nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân, tạo thuận lợi cho các tỉnh trong vùng thu hút hơn nữa nguồn lực, phục vụ phát triển Kt-XH.
Cụ thể, ngoài tuyến cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột, kính đề nghị Trung ương quan tâm đầu tư các tuyến cao tốc kết nối tỉnh Đắk Lắk, cũng như các tỉnh Tây Nguyên với các tỉnh trong vùng, khu vực và tỉnh đầu tàu phát triển cả nước. Quan tâm đầu tư một số tuyến giao thông liên kết nội vùng Tây Nguyên như: cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 27 nối tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Đắk Lắk; tuyến Quốc lộ 29 nối tỉnh Đắk Lắk với tỉnh Phú Yên; xem xét, bổ sung tuyến đường sắt Tuy Hòa – Buôn Ma Thuột vào quy hoạch đường sắt quốc gia; hỗ trợ Cảng Hàng không Buôn Ma Thuột thành Cảng Hàng không quốc tế.
Cùng với đó, quan tâm đầu tư xây dựng một số công trình, dự án lớn, tạo sức lan tỏa cho toàn vùng như: Trường Đại học Y Dược vùng Tây Nguyên, Bệnh viện tuyến Trung ương tại Đắk Lắk, nâng cấp Trường Đại học Tây Nguyên, xây dựng Trung tâm đổi mới, sáng tạo khu vực Tây Nguyên…; cho phép tỉnh Đắk Lắk tiếp tục đăng cai, tổ chức Lễ hội Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; xây dựng đền thờ Vua Hùng của vùng Tây Nguyên tại tỉnh Đắk Lắk.
Bên cạnh đó, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đình Trung cũng nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp mà tỉnh Đắk Lắk tập trung thực hiện trong thời gian tới như: tiếp tục dựa vào lợi thế của mình, khai thác tốt hơn nữa tiềm năng hiện có, đặc biệt là các ngành còn nhiều dư địa để phát triển KT-XH nhanh, bền vững dựa trên 4 trụ cột tăng trưởng là: Phát triển các sản phẩm nông, lâm sản lợi thế quy mô lớn, chất lượng cao, xuất khẩu lớn. Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và sản xuất năng lượng tái tạo quy mô lớn. Kinh tế đô thị, hạ tầng số, hạ tầng thủy lợi. Dịch vụ - logistic – du lịch dựa trên nền tảng số, kinh tế số, xã hội số. Hoàn thành việc lập, trình phê duyệt và triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch tỉnh Đắk Lắk thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, bảo đảm phù hợp với các Quy hoạch cấp quốc gia, Quy hoạch ngành quốc gia và vùng Tây Nguyên theo Kết luận số 67-KL/TW; tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; tập trung phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, thực hiện hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống người dân…
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Tây Nguyên là địa bàn chiến lược, phát triển Tây Nguyên nhanh, bền vững là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị, trong đó phải chú trọng phát huy tinh thần tự lực, tự cường và đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn.
Thủ tướng yêu cầu các tỉnh Tây Nguyên và các bộ, ngành phải bám sát, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ của 5 tỉnh trong vùng để tổ chức thực hiện có hiệu quả. Mục tiêu phát triển Tây Nguyên cần thống nhất, đặt trong tổng thể các mục tiêu chung của cả nước. Xây dựng và phát triển vùng Tây Nguyên kết hợp hài hòa, hợp lý trên các trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường - quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của từng địa phương; đẩy mạnh liên kết vùng và nội vùng, liên kết chặt chẽ với duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ; kết nối nhanh với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, Tiểu vùng sông Mê Công và khu vực Tam giác phát triển Việt Nam - Lào – Campuchia và ASEAN.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho hay, mục tiêu phát triển Tây Nguyên phải phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; chuyển đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp; kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; là điểm đến đặc sắc thu hút khách du lịch; hệ sinh thái được bảo tồn, an ninh nguồn nước được đảm bảo; an ninh chính trị ổn định; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện.
Để thực hiện mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ đề nghị cần tập trung vào các giải pháp trọng tâm như: tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng; quán triệt sâu sắc, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng đối với phát triển KT-XH, môi trường, đảm bảo QP-AN; phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi; thực hiện việc chuyển đổi, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin sang hạ tầng số song hành với quá trình chuyển đổi số quốc gia trên tất cả các lĩnh vực; nghiên cứu cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng hiệu quả, nâng cao giá trị gia tăng, đặc biệt chú trọng ngành nông, lâm nghiệp và du lịch…
Bên cạnh đó, cần tập trung nâng cao tiềm lực phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, du lịch, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát huy nguồn lực đất đai trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển KT-XH tương xứng với vị trí chiến lược của Tây Nguyên với cả nước; đảm bảo quỹ đất sản xuất cho người dân; xử lý có hiệu quả quản lý đất đai các nông, lâm trường; phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trong đồng bào dân tộc, coi đây là một trong những khâu đột phá cho sự phát triển nhanh và bền vững của vùng; tập trung tối đa các nguồn lực cả trong và ngoài Nhà nước, cả ở Trung ương và địa phương cho đầu tư phát triển vùng Tây Nguyên...
Võ Hà - Thế Hùng