Chiều 5/12, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chủ trì cuộc họp của Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ và Thường trực Chính phủ, cho ý kiến về Đề án phòng, chống sụt lún, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn vùng ĐBSCL; dự thảo Báo cáo Bộ Chính trị về kết quả thực hiện xử lý một số vấn đề tồn đọng (dự án chống ngập lụt của TPHCM và các dự án khác liên quan đến bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu).
Cùng dự cuộc họp có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Bí thư Đảng ủy Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ.

Thủ tướng Chính phủ chủ trì cuộc họp của Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ và Thường trực Chính phủ chiều 5/12
Tại cuộc họp, về Đề án phòng, chống sụt lún, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn vùng ĐBSCL, các đại biểu đã tập trung thảo luận về bối cảnh, tình hình; hạn chế, thách thức và nguyên nhân; quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong dự thảo tờ trình, dự thảo Kết luận của Bộ Chính trị.
Theo Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2025, Đảng ủy Chính phủ đã giao Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan nghiên cứu xây dựng Đề án phòng, chống sụt lún, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn ở ĐBSCL.
Đề án được xây dựng bám sát tinh thần Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/04/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quy hoạch vùng ĐBSCL, Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu; các chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ.
Sau khi nghe các báo cáo, ý kiến, phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính cơ bản thống nhất với nội dung báo cáo, đề xuất của Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường; yêu cầu nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến tại cuộc họp để khẩn trương hoàn thiện hồ sơ, tài liệu trình Bộ Chính trị theo quy định, bảo đảm tiến độ, chất lượng.
Theo Thủ tướng, ĐBSCL là đồng bằng trù phú nhất của đất nước ta, có nền văn hóa bản sắc, phong phú, tiềm năng phát triển lớn, nhất là nông nghiệp, nhưng đang đối mặt với nhiều vấn đề rất lớn như sụt lún đất, sạt lở bờ sông, bờ biển, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn. Những vấn đề này có mối quan hệ, tác động qua lại với nhau và đều liên quan đến nguồn nước, giải pháp cho vấn đề này có thể tác động đến vấn đề khác.
Đây là vấn đề rất quan trọng, liên quan đến sinh kế, đời sống của người dân ĐBSCL, nơi chiếm tới 12,8% diện tích, gần 18% dân số cả nước, đóng góp 95% sản lượng gạo xuất khẩu, 60% thủy sản, 65% sản lượng trái cây xuất khẩu của cả nước.
Nhấn mạnh phải dành cho ĐBSCL vị trí xứng đáng trong lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư các nguồn lực, bảo vệ, khai thác hiệu quả, bền vững ĐBSCL, Bí thư Đảng ủy, Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ, tư duy, phương pháp luận, tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt trong xây dựng Đề án là phải có các giải pháp "thuận thiên", thích ứng linh hoạt, hiệu quả với biến đổi khí hậu tại ĐBSCL; có các giải pháp tổng thể, toàn diện, căn cơ hơn với các vấn đề sụt lún đất, sạt lở bờ sông, bờ biển, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn, phát triển bền vững ĐBSCL.
Thủ tướng lưu ý cần phân tích rõ tình hình, nguyên nhân; làm rõ cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn; những nội dung chính về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để phòng chống sụt lún, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn, với thời hạn thực hiện cụ thể.
Đặc biệt, Thủ tướng yêu cầu rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách để có nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nói trên, đặc biệt là huy động sự tham gia của người dân, doanh nghiệp, nguồn lực ngoài ngân sách để thực hiện các dự án với tinh thần hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp, như hợp tác công tư, BT, BOT, vốn vay…, trong đó huy động nguồn lực ngoài nhà nước ít nhất 35%; xây dựng danh mục dự án cụ thể với địa chỉ cụ thể, thứ tự ưu tiên, bố trí nguồn lực, quy hoạch tổng thể còn thực hiện thì làm đến đâu chắc đến đấy, làm việc nào ra việc đó.
Nhấn mạnh tinh thần phải rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ sản phẩm, rõ lộ trình, rõ bước đi, Thủ tướng lưu ý thêm một số giải pháp như triển khai các chương trình, dự án về khoa học và công nghệ, đặc biệt là mở rộng các giải pháp công nghệ mới đã được ứng dụng hiệu quả trên thực tế; các giải pháp phi công trình như sắp xếp lại dân cư, trồng và bảo vệ rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển, điều chỉnh, chuyển đổi sản xuất để hạn chế tình trạng hạ thấp mực nước trên kênh rạch, nước ngầm ở các vùng ngọt hóa, từ đó khắc phục sụt lún; nghiên cứu để có lộ trình giảm khai thác nước dưới đất...
Về giải pháp công trình, cần đưa ra chương trình, dự án cụ thể; các công trình cần được rà soát, nghiên cứu kỹ bảo đảm khoa học, khả thi, tránh xây dựng công trình phục vụ mục đích này lại tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến mục đích khác, công trình của ngành này tác động, ảnh hưởng đến ngành khác, địa phương này ảnh hưởng tới địa phương khác. Thủ tướng cũng lưu ý cần đẩy mạnh phát triển giao thông đường thủy nội địa tại ĐBSCL để khai thác lợi thế này của vùng.
Theo Thủ tướng, những vấn đề đặt ra đối với ĐBSCL đều là những vấn đề rất lớn, cần bố trí thứ tự ưu tiên, cần có sự vào cuộc của các bộ, các ngành, nhất là các bộ có liên quan trực tiếp như Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ, các cơ quan nghiên cứu, các chuyên gia, nhà khoa học, cấp ủy, chính quyền các địa phương vùng ĐBSCL, đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Thủ tướng giao Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tiếp tục chỉ đạo Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường hoàn thiện đề án, Bộ Tài chính tham gia ý kiến và rà soát, cân đối bảo đảm nguồn lực tài chính, nguồn ngân sách nhà nước và cách thức huy động nguồn lực để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Đề án sau khi có Kết luận của Bộ Chính trị.

Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ, tư duy, phương pháp luận, tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt trong xây dựng Đề án là phải có các giải pháp "thuận thiên", thích ứng linh hoạt, hiệu quả với biến đổi khí hậu tại ĐBSCL
Đối với nội dung xử lý một số vấn đề tồn đọng (dự án chống ngập lụt của TPHCM và các dự án khác liên quan đến bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu), các báo cáo, ý kiến tại cuộc họp đánh giá, việc xử lý các dự án vướng mắc, tồn đọng kéo dài nói chung vừa qua đã được Bộ Chính trị, Chính phủ tập trung chỉ đạo làm quyết liệt nhằm đưa các dự án vào hoạt động, khơi thông nguồn lực, chống lãng phí.
Bộ Chính trị đã có Kết luận số 77, Quốc hội đã có Nghị quyết số 170/2024/QH15 về cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án; vừa qua Bộ Chính trị tiếp tục có chỉ đạo giao Đảng uỷ Chính phủ phối hợp với Đảng uỷ Quốc hội bổ sung vào chương trình kỳ họp thứ 10 của Quốc hội để xem xét, thông qua Nghị quyết mở rộng phạm vi áp dụng Nghị quyết số 170.
Dự án chống ngập lụt của TPHCM cũng là dự án vướng mắc kéo dài, Chính phủ đã có Nghị quyết số 212/NQ-CP ngày 21/7/2025 tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Theo Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường, dự án chống ngập lụt của TPHCM đến nay đang được triển khai tích cực, không có các vướng mắc lớn cần báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị.
Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã tiến hành rà soát, tổng hợp các dự án khác liên quan đến môi trường, biến đổi khí hậu. Mặt khác, tại Quyết định số 2530/QĐ-TTg ngày 19/11/2025, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Về nội dung này, Bí thư Đảng ủy, Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao, cơ bản thống nhất với nội dung dự thảo Báo cáo Bộ Chính trị do Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường chuẩn bị, đề nghị tiếp thu ý kiến tại cuộc họp, tiếp tục cập nhật đầy đủ các thông tin để hoàn thiện nội dung Báo cáo về dự án chống ngập lụt của TPHCM.
Cùng với đó, Thủ tướng cho rằng cần có chỉ đạo chung trên cả nước và nghiên cứu triển khai các dự án khắc phục ô nhiễm, quản lý chất lượng không khí tại các địa phương trọng điểm, trước hết là tại Hà Nội và TPHCM; rà soát lại, nếu đã có cơ chế, chính sách thì thực hiện theo thẩm quyền, nếu cần có các cơ chế, chính sách khác mà chưa được pháp luật quy định thì đề xuất Bộ Chính trị.
*Cũng trong ngày 5/12, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ, cho ý kiến về đề án khu thương mại tự do chuẩn bị trình cấp có thẩm quyền và về đề xuất cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia tại khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi).
Về đề án khu thương mại tự do do Bộ Tài chính chủ trì xây dựng, các đại biểu tập trung thảo luận về cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn; các mục tiêu, định hướng phát triển, nguyên tắc, tiêu chí thành lập, mô hình, nhiệm vụ, giải pháp, khung pháp lý, cơ chế, chính sách ưu tiên, đặc thù cho khu thương mại tự do.
Theo các báo cáo, ý kiến tại cuộc họp, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030, các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội về phát triển địa phương và các trụ cột phát triển đã đặt ra nhiệm vụ, giải pháp: Tập trung xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội, cạnh tranh để xây dựng thí điểm khu thương mại tự do.
Hiện nay trên thế giới có hơn 7.000 khu kinh tế đặc biệt và khu thương mại tự do đang hoạt động; với tầm quan trọng ngày càng lớn trong chiến lược phát triển kinh tế hiện đại của các nước đang phát triển và mới nổi. Mô hình khu thương mại tự do hiện nay còn được mở rộng thành các khu đa chức năng về công nghiệp, đô thị, dịch vụ, tài chính, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, thu hút tối đa nguồn lực phát triển.
Ở Việt Nam, hệ thống pháp luật chung chưa có quy định cụ thể về cơ chế, chính sách, quản lý và hoạt động của khu thương mại tự do. Thời gian qua, Quốc hội đã ban hành các nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Đà Nẵng, TP. Hải Phòng, trong đó có nội dung về khu thương mại tự do.
Do vậy, việc xây dựng đề án khu thương mại tự do có tính cấp thiết, quan trọng cần triển khai ngay nhằm cung cấp cơ sở chính trị, tiến tới thể chế hóa thành cơ sở pháp lý chung về khu thương mại tự do; từ đó đưa các khu thương mại tự do thành động lực phát triển mới, là khu vực thí điểm về đổi mới cơ chế, chính sách, thể chế kinh tế, môi trường kinh doanh của Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế.
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính hoan nghênh, đánh giá cao việc chuẩn bị, xây dựng đề án của Bộ Tài chính, yêu cầu tiếp thu các ý kiến tại cuộc họp để tiếp tục hoàn thiện đề án, trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, tinh thần là làm nhanh, khẩn trương nhưng chất lượng.
Nhấn mạnh thêm một số nội dung, Thủ tướng nêu rõ đây là việc mới, thống nhất chủ trương nhưng thực hiện phải có tính khả thi, hiệu quả; mục tiêu là thử nghiệm chính sách và góp phần phát triển kinh tế-xã hội, đáp ứng các mục tiêu trước mắt và lâu dài, nhất là 2 mục tiêu chiến lược 100 năm.
Thủ tướng lưu ý làm rõ khái niệm khu thương mại tự do, những điểm tương đồng và khác biệt với trung tâm tài chính quốc tế; cơ chế, chính sách cho hai đối tượng này có những điểm giống và những điểm khác, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy định đã có.
Việc lựa chọn địa điểm thí điểm khu thương mại tự do phải phù hợp, cân đối vùng miền, theo đúng tinh thần thí điểm (số lượng không nhiều và có thời gian nhất định để đánh giá), Thủ tướng yêu cầu các cơ quan tham khảo kinh nghiệm quốc tế, căn cứ điều kiện Việt Nam để xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, phù hợp, vượt trội, cạnh tranh, khả thi nhưng không ảnh hưởng quá nhiều đến môi trường đầu tư chung; chính sách vừa có quy định chung, vừa có đặc thù phù hợp với các khu, các địa phương khác nhau.
Để thí điểm khu thương mại tự do, Thủ tướng nêu rõ phải triển khai các công việc để từ chủ trương thành chính sách, quy hoạch, phát triển hạ tầng, thu hút nguồn lực, phát triển, ứng dụng công nghệ cao, quản lý thông minh, đào tạo nhân lực; lưu ý vấn đề dân cư, bảo đảm an sinh xã hội tiến bộ, môi trường sáng xanh sạch đẹp, văn minh, hiện đại; tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tăng cường phân cấp, phân quyền, tăng tính chủ động của khu thương mại tự do và tăng cường giám sát, kiểm tra.
Về đề xuất cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia tại khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi), theo các báo cáo, ý kiến tại cuộc họp, nhà máy lọc dầu Dung Quất là nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam, nằm trong khu kinh tế Dung Quất.
Với những lợi thế về vị trí chiến lược và hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, khu kinh tế này đã trở thành điểm đầu tư hấp dẫn trong và ngoài nước, được Chính phủ quy hoạch thành một khu kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực, với trọng tâm là công nghiệp lọc dầu, hóa dầu, công nghiệp nặng quy mô lớn, các ngành công nghiệp nhẹ…
Tại Nghị quyết số 26 về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Bộ Chính trị đã đặt ra nhiệm vụ "mở rộng và xây dựng trung tâm lọc, hóa dầu và năng lượng quốc gia tại khu kinh tế Dung Quất".
Sau khi nghe các báo cáo, ý kiến, phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, nhà máy lọc dầu Dung Quyết do Việt Nam đầu tư, thực hiện, đang hoạt động hiệu quả và đã có chủ trương mở rộng giai đoạn 2, phù hợp với sự phát triển chung của đất nước.
Hoan nghênh Bộ Công Thương, các bộ, ngành và tỉnh Quảng Ngãi đã xây dựng, đề xuất các chính sách, Thủ tướng cơ bản đồng tình với các chính sách này và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cùng Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng quốc gia (Petrovietnam) rà soát lại, làm rõ các nội dung đã có và có thể áp dụng những nội dung mới, chính sách đặc thù, đột phá, mạnh mẽ hơn nữa để đề xuất các cơ quan có thẩm quyền.
Lưu ý chính sách thuộc thẩm quyền của Quốc hội thì báo cáo Quốc hội xem xét quyết định, chính sách thuộc thẩm quyền của Chính phủ thì đề xuất Chính phủ xem xét, quyết định, chính sách thuộc thẩm quyền bộ, ngành, địa phương thì chủ động thực hiện, Thủ tướng lưu ý có đề án chung để thực hiện bảo đảm tổng thể, khả thi, hiệu quả, từ đó phát triển trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia tại khu kinh tế Dung Quất, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững, góp phần phát triển kinh tế-xã hội địa phương, bảo đảm an ninh, tự chủ năng lượng quốc gia, phát triển ngành công nghiệp lọc hóa dầu, công nghiệp năng lượng, thúc đẩy tăng trưởng 2 con số trong những năm tới và thực hiện 2 mục tiêu chiến lược 100 năm của đất nước./.



