25/06/2024 lúc 13:20 (GMT+7)
Breaking News

Xây dựng thể chế phát triển đất nước nhanh, bền vững trong giai đoạn mới

Để xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, cần tiếp tục làm rõ hơn cơ sở lý luận - thực tiễn, nội dung, cấu trúc, cơ chế vận hành của thể chế này.

I. Nhận thức về tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc xây dựng thể chế phát triển đất nước nhanh, bền vững

1. Hiện nay, trên thế giới, cả về lý luận và thực tiễn, đều có sự thống nhất cao rằng: Thể chế là một trong số ít yếu tố giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của một quốc gia nói chung hay trong từng lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội nói riêng. Thể chế phù hợp sẽ tạo động lực phát triển; thể chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển, thậm chí làm biến dạng sự phát triển, có thể đưa đến sự khủng hoảng. Vấn đề đặt ra là phải nhận thức đúng và xây dựng được một thể chế phát triển phù hợp, hiệu quả.

2. Ở Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới (1986), Đảng ta chưa đưa ra khái niệm “thể chế phát triển”; nhưng đã xác định phải đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị; kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và thực hiện các chính sách xã hội; đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp. Trong đổi mới kinh tế, đặt trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; trong đổi mới chính trị đặt trọng tâm vào đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương xã hội. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng đã xác định mối quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị” là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.

3. Do điều kiện lịch sử cụ thể, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong giai đoạn cho đến trước Đại hội XIII, Đảng và Nhà nước mới chính thức xác định và tập trung cao về xây dựng và hoàn thiện “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Từ Đại hội lần thứ VI (1986) đến nay, nhận thức của Đảng về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên tục được bổ sung và hoàn thiện.

Tuy nhiên, cho đến trước Đại hội XI của Đảng (2011), việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng (dựa chủ yếu vào nguồn lực đất đai, tài nguyên, nguồn nhân lực trình độ thấp; công nghệ thấp…). Mặc dù vậy, sự phù hợp của trình độ thể chế kinh tế thị trường trong giai đoạn này đã tạo động lực rất quan trọng để đưa đất nước phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được quốc tế ghi nhận. Mặt khác, Đại hội XI của Đảng cũng đã chỉ rõ những hạn chế cơ bản của thể chế phát triển theo chiều rộng, làm cho động lực phát triển đất nước bị suy giảm đáng kể. Từ đó, Đại hội XI xác định yêu cầu tất yếu khách quan và cấp thiết của việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng - phát triển theo chiều sâu; dựa chủ yếu vào nguồn lực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Văn kiện đại hội XI của Đảng (2011) đã xác định “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính là một đột phá chiến lược. Đối với các lĩnh vực khác (như chính trị, văn hóa, xã hội…), vẫn được Đảng rất quan tâm lãnh đạo đổi mới, xây dựng và hoàn thiện khung khổ phát luật, cơ chế, chính sách phát triển. Tuy nhiên, về mặt nhận thức và quy định pháp lý, vẫn chưa xác định rõ, đầy đủ, đồng bộ nôi dung và cơ chế về xây dựng thể chế phát triển đối với các lĩnh vực này (như đối với xây dựng thể chế kinh tế).

4. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII (2016) đã rút ra kết luận: Việc chuyển đổi thể chế kinh tế thị trường sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo còn nhiều bất cập, chưa có hiệu quả cao; đồng thời “đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”. Điều này cho thấy yêu cầu lớn và cấp thiết đặt ra là phải xây dựng thể chế phát triển đồng bộ theo chiều sâu, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh, bền vững.

5. Từ tổng kết thực tiễn quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng (2021) đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ tư nhấn mạnh phải “tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hoà giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước”.

Đồng thời, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra “Tầm nhìn và định hướng phát triển”đất nước trong giai đoạn mới, trong đó đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh đổi mới tư duy phát triển, đưa công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ lên một tầm cao mới, phát triển nhanh và bền vững, đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, để thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Và Đại hội XIII chính thức xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựnghoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”; đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, dựa vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là nhiệm vụ trung tâm trong sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong giai đoạn mới. Đột phá về xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ theo chiều sâu có tầm quan trọng trực tiếp tạo nên động lực đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững.

6. Tại cuộc họp lần thứ nhất của Tiểu ban văn kiện Đại hội XIV (ngày 23 tháng 2 năm 2024), trên cơ sở chỉ rõ những yêu cầu, nhiệm vụ và trọng tâm trong xây dựng các dự thảo văn kiện, đặc biệt là Báo cáo chính trị, trình Đại hội XIV của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyên Phú Trọng đã chỉ rõ phải “hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa trên những trụ cột là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Việc Đại hội XIII của Đảng xác định rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết của nhiệm vụ “tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển”, và đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ phải “hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước” trong giai đoạn mới, cho thấy, nhận thức lý luận - thực tiễn của Đảng về công cuộc đổi mới đã có bước phát triển rất quan trọng, trong đó có nhiệm vụ phải xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước, đồng bộ về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh thái. Vấn đề đặt ra là phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hiện có hiệu lực, hiệu quả.

II. Những vấn đề đặt ra về xây dựng và thực thi thể chế phát triển nhanh, bền vững

Để xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, cần tiếp tục làm rõ hơn cơ sở lý luận - thực tiễn, nội dung, cấu trúc, cơ chế vận hành của thể chế này.

1. Cần nhận thức rõ hơn yêu cầu, đặc trưng và cấu trúc của thể chế phát triển

(1). Hiện nay, trên thế giới, quan niệm chung cho rằng thể chế phát triển nhanh, bền vững của một đất nước phải đáp ứng các yêu cầu sau:  

- Đảm bảo sự tăng trưởng - phát triển với tốc độ tương đối cao, thể hiện cả ở tăng trưởng về số lượng, quy mô và sự tăng lên không ngừng về chất lượng, hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế.

- Sự tăng trưởng - phát triển với tốc độ tương đối cao được duy trì trong một thời gian tương đối dài.

- Sự tăng trưởng - phát triển đảm bảo sự đồng bộ giữa các lĩnh vực, không ngừng làm tăng nội lực và năng lực độc lập tự chủ của quốc gia.

- Đảm bảo tính bền vững trong quá trình phát triển cả về chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái.

Để đạt được mục tiêu phát triển nhanh - bền vững, thể chế phát triển cần được xây dựng phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất nước; các yêu cầu và mục tiêu phát triển nhanh - bền vững cũng phải được cụ thể hóa phù hợp với từng giai đoạn, từng bước tiếp cận với các giá trị chung của nhân loại.

(2). Những đặc trưng cơ bản của thể chế phát triển nhanh - bền vững

Thể chế phát triển nhanh, bền vững, xét về bản chất phải là thể chế “dung hợp” (14), đảm bảo sự đồng bộ, phù hợp giữa thể chế chính trị với thể chế kinh tế và thể chế xã hội để tạo động lực phát triển. Nhưng trình độ (mức độ) “dung hợp” của thể chế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền gắn với năng lực quản lý của nhà nước, điều kiện cụ thể của một quốc gia, bối cảnh và quan hệ quốc tế…Từ thực tiễn phát triển của các nước, nhất là các nước có trình độ còn tương đối thấp nhưng đạt được sự phát triển nhanh, có thể khái quát các đặc trưng cơ bản của thể chế phát triển nhanh, bền vững như sau :

(i). Đó phải là một thể chế vượt trội, có khả năng đón nhận được các cơ hội, những xu hướng phát triển mới, thay đổi với tốc độ nhanh, mang tính đột phá, như cuộc CMCN 4.0; “hóa giải” được các thách thức, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, huy động được tất cả các nguồn lực và sử dụng có hiệu quả để tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ. Thể chế phát triển nhanh, bền vững phải đảm bảo sự đồng bộ, phù hợp giữa thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế môi trường sinh thái trong những điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của đất nước. 

(ii). Thể chế chính trị thể hiện tập trung ở nhà nước pháp quyền, đưa ra định hướng đường lối, chiến lược, mục tiêu phát triển đúng đắn; đề cao nguyên tắc pháp quyền với hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách phù hợp; nền hành chính minh bạch, đơn giản, thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững (khái niệm bền vững được hiểu theo quan niệm động). Quyền lực của nhà nước được sử dụng, kiểm soát hiệu lực, hiệu quả.

(iii). Thể chế lãnh đạo - quản lý - quản trị phát triển sáng suốt, năng động, hiệu lực, hiệu quả; phát huy dân chủ, sáng tạo; chỉ đạo triển khai tập trung, thống nhất; tập trung nguồn lực phát triển cho những lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn. Có năng lực thích ứng cao.

(iv). Hệ thống tổ chức, bộ máy của nhà nước (hệ thống chính trị) tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; trách nhiệm giải trình cao; đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, liêm chính, kỷ cương, dấn thân, sáng tạo.

(v). Đề cao vai trò chủ thể của nhân dân, các thành phần kinh tế, các tổ chức trong xã hội trong sự phát triển; coi trọng đổi mới, sáng tạo; phát huy cao nhân tố con người.

(vi). Phân phối thành quả và lợi ích phát triển hài hòa, tương đối công bằng giữa các tầng lớp, thành viên xã hội; quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, đối tượng yếu thế.

(vii). Quy tụ được nhân tâm của nhân dân, gắn kết được các lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc, tạo được niềm tin và ý chí chấn hưng quốc gia của dân tộc - đó là động lực cốt lõi của thể chế phát triển nhanh - bền vững.

(viii). Trong thể chế phát triển có những chế định mang tính nguyên tắc chi phối chung, lâu dài; có những chế định mang tính thời đoạn, thích ứng với những điều kiện cụ thể, lĩnh vực cụ thể.

Những đặc trưng đó được thể hiện trong thể chế phát triển của mỗi quốc gia có khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của mỗi nước.

(3). Vấn đề trung tâm của thể chế - tạo động lực phát triển

Vấn đề trung tâm - cốt lõi của thể chế là phải tạo được động lực phát triển trong mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi cộng đồng, kết nối thành động lực phát triển của cả dân tộc. Xét một cách tổng quát, động lực đó phải được tạo lập đồng bộ cả về mặt lợi ích kinh tế, lợi ích tinh thần - giá trị xã hội, giá trị dân chủ và pháp quyền, giá trị đạo đức, của tất cả các chủ thể trong xã hội. Trong đó mỗi thể chế thành phần cần hướng tới tạo lập các giá trị đặc trưng cơ bản của mình, đồng thời tương tác với các thể chế khác để tạo động lực tổng hợp cho sự phát triển, cụ thể là:

- Thể chế chính trị cần xây dựng và thực thi các giá trị chủ yếu sau: giá trị quyền lực chính trị chân chính, thúc đẩy phát triển, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, chống tha hóa quyền lực, tham nhũng; giá trị pháp quyền và dân chủ; giá trị quyền con người và quyền công dân; giá trị lý tưởng, giá trị dân tộc - chấn hưng dân tộc.

- Thể chế kinh tế cần xây dựng và thực thi các giá trị chủ yếu sau: tôn trọng và bảo vệ quyền tài sản chính đáng; lợi ích kinh tế chính đáng gắn với trách nhiệm xã hội; tạo lập môi trường sản xuất kinh doanh công khai, minh bạch, bình đẳng, lành mạnh; xác lập và bảo vệ lợi ích liên kết, hợp tác, chia sẻ; thúc đẩy đổi mới - sáng tạo. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiệu lực, hiệu quả.

- Thể chế xã hội cần xây dựng và thực thi các giá trị chủ yếu sau: phát triển các giá trị con người, giá trị công dân; đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội; cố kết cộng đồng và đồng thuận xã hội; trật tự và an toàn xã hội, không để xảy ra xung đột xã hội; chia sẻ hài hòa thành quả phát triển giữa các tầng lớp, chủ thể;  xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc, “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

- Thể chế môi trường sinh thái tập trung xây dựng và hiện thực hóa các giá trị chủ yếu sau: tạo môi trường sống hài hòa giữa con người, xã hội với tự nhiên; bảo vệ môi trường sinh thái; ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển nền kinh tế xanh và tiêu dùng xanh …

- Thể chế hội nhập quốc tế tập trung xác định và thực thi những giá trị cốt lõi trong hội nhập quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, như: bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; giá trị hợp tác, liên kết, cộng đồng trách nhiệm, cùng có lợi; đấu tranh vì những giá trị chung của nhân loại…Đây là những giá trị ngày càng đóng vai trò rất quan trọng trong thể chế phát triển của một quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế.

Trong xây dựng thể chế phát triển, để tạo được động lực phát triển mạnh mẽ, cần lưu ý đặc biệt tới vai trò của thể chế, cơ chế liên kết giữa các chủ thể, các yếu tố (vật chất và phi vật chất) theo một cấu trúc, mô hình nào đó, nếu phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan, quy luật khách quan sẽ tạo nên động lực lớn theo “cấp số nhân” thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển; còn nếu tạo sự liên kết - cấu trúc không phù hợp sẽ làm suy yếu, kiềm chế, triệt tiêu động lực phát triển. Điều này thường diễn ra khá phổ biến trong việc xây dựng luật pháp, cơ chế chính sách đối với những lĩnh vực, vấn đề liên ngành, liên chủ thể, liên cấp.

(4). Cấu trúc tổng thể của thể chế phát triển:

Hiện hay, cả về lý luận và thực tiễn, đã có sự thống nhất khá cao rằng: Thể chế phát triển là một cấu trúc xã hội đồng bộ bởi ba thành tố chính: i) - Các chủ thể tham gia (các tổ chức, đơn vị và các nhân; ii) - Khung khổ pháp luật, cơ chế, chính sách, quy định để các chủ thể hoạt động (gồm cả các quy định chính thức và phi chính thức); iii) - Nội dung và môi trường lĩnh vực mà các chủ thể hoạt động (các lĩnh vực).Trong ngôn ngữ truyền thông, người ta còn gọi 3 thành tố trên là “Người chơi”, “Luật chơi” và “Sân chơi”. Thể chế phù hợp đòi hỏi sự động bộ giữa ba thành tố trên bình diện chung, và phải cụ thể hóa phù hợp trong từng lĩnh vực.

Trong thể chế phát triển đòi hỏi trước hết là tính khoa học, hợp lý và phù hợp với trình độ thực tế, điều kiện cụ thể của từng thành tố; đồng thời đảm bảo sự đồng bộ, hài hòa giữa ba thành tố trên. Các chủ thể tham gia (người chơi) bao gồm: các chủ thể xây dựng và quyết định khung khổ pháp luật, cơ chế, chính sách; các chủ thể thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách; các chủ thể giám sát, kiểm tra việc thực thi thể chế. “Luật chơi” cũng phải bao gồm: “Luật chơi” đối với những người xây dựng và ban hành luật pháp, cơ chế, chính sách; “luật chơi” cho các đối tượng thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách; “luận chơi” đối với các chủ thể giám sát, kiểm tra việc thực thi thể chế. Cả các chủ thể tham gia và “luật chơi” phải phù hợp với bản chất, tính chất và trình độ phát triển của “sân chơi” (chung và trong từng lĩnh vực cụ thể).

Theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể chế phát triển nhanh, bền vững là một tổng thể hữu cơ các thể chế phát triển thành phần, gồm: thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội, thể chế môi trường sinh thái, trong đó, thể chế chính trị giữ vai trò quyết định về định hướng phát triển của tất cả các thể chế thành phần. Trong số các chủ thể tham gia, chủ thể Nhà nước có vị trí đặc biệt về tư cách đa diện: Nhà nước đồng thời là người quyết định luật chơi, người tổ chức thực thi luật chơi, người kiểm soát quá trình thực thi luật chơi, đồng thời cũng là người chơi khi thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các chủ thể khác và toàn xã hội trong thực thi thể chế. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các chủ thể khác trong xã hội không đơn thuần chỉ đóng vai trò thực thi “luật chơi”, mà đồng thời cũng là chủ nhân của xã hội, tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện “luật chơi”, giám sát việc thực thi “luật chơi”. Đương nhiên, trong thế giới hiện nay, ở hầu như tất cả các nước xây dựng thể chế dân chủ pháp quyền, còn có một “chủ thể đặc biệt” là các đảng cầm quyền (lãnh đạo nhà nước), có vai trò định hướng chính trị đối với sự phát triển của tất các các lĩnh vực trong xã hội.

2. Xác định vai trò của thể chế phát triển nhanh, bền vững

Ngày nay, cả về lý luận và thực tiễn phát triển trên thế giới cho thấy rằng để một đất nước phát triển nhanh - bền vững, lên một trình độ cao, phải dựa trên một thể chế phát triển đồng bộ giữa kinh tế - chính trị - xã hội - môi trường sinh thái. Vai trò của thể chế đối với sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:

(1)  Xác lập nền tảng pháp lý cho cấu trúc và cơ chế vận hành nền chính trị - kinh tế - xã hội của quốc gia; xác lập cơ chế phát triển xã hội và quản lý quản lý phát triển xã hội; xác lập địa vị, vai trò, trách nhiệm, quyền và lợi ích của các chủ thể trong quá trình phát triển, nhất là vai trò của Nhà nước;

(2) Đưa ra đường lối, chiến lược, mô hình, mục tiêu phát triển; xác định hệ giá trị phát triển; định hướng và điều tiết sự phát triển của xã hội phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan;

(3) Xác lập mô hình và thể chế nhà nước, nền hành chính để thực thi quyền lực chính trị gắn với sự phát triển mọi mặt của xã hội; phòng ngừa và ngăn chặn sự suy thoái, tha hóa của quyền lực;

(4) Tạo lập khung pháp lý và điều kiện để kiến tạo và phát triển năng lực các chủ thể, phát huy đúng vai trò của từng loại chủ thể; liên kết các chủ thể, các nguồn lực, các yếu tố theo những mô hình phát triển có hiệu quả; giúp cho mọi hoạt động của các chủ thể trở nên minh bạch hơn, tin cậy hơn, giảm thiểu các “xung đột” trong quá trình tương tác với nhau;

(5) Tạo lập cơ chế, chính sách huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển; tạo động lực phát triển (động lực tinh thần, động lực pháp lý, động lực lợi ích, động lực đạo đức…), nhất là động lực cộng hưởng thông qua sự liên kết giữa các chủ thể và các yếu tố; điều tiết hài hòa lợi ích phát triển giữa các chủ thể;

(6) Tạo lập “sân chơi” lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, phù hợp, hiệu quả đối với các chủ thể trong từng lĩnh vực; nhất là đối với các doanh nghiệp.

(7) Tạo lập khung khổ pháp lý phù hợp để hội nhập quốc tế có hiệu quả cao, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; kết nối được các giá trị của dân tộc với các giá trị chung của nhân loại.

(8). Tạo lập và thực thi cơ chế vận hành và kiểm soát thực thi thể chế có hiệu quả; khắc phục, phòng ngừa các rủi ro, tiêu cực.

Trong thể chế phát triển nhanh - bền vững, thể chế chính trị có các vai trò chủ yếu sau:

(i). Xác lập quyền lực chính trị, sử dụng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, giá trị và mục tiêu của thể chế chính trị; tạo lập đồng thuận xã hội, ý chí dân tộc; xác lập và đảm bảo quyền con người, quyền công dân;

(ii). Xây dựng thể chế nhà nước, bộ máy công quyền tinh gọn, hoạt động minh bạch, hiệu lực, hiệu quả;

(iii). Xác lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa; gắn quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội của tất cả các chủ thể (Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các đơn vị, cá nhân và người dân);

(iv). Kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng - tha hóa quyền lực, lợi ích nhóm, chủ nghĩa thân hữu;

(v). Quy tụ được lòng người, gắn kết được các giá trị của tất cả các chủ thể trong xã hội trong những định hướng, mục tiêu phát triển chung đúng đắn;

(vi). “Kết nối sức mạnh của dân tộc với với sức mạnh của thời đại”, với những giá trị chung của nhân loại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đất nước phát triển nhanh- bền vững.

Thể chế kinh tế có các vai trò chủ yếu sau:

(i). Xác lập chế độ kinh tế; quyền tự do sản xuất kinh doanh, quyền tài sản, lợi ích kinh tế của tất cả các chủ thể;

(ii) Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp, hiệu quả;

(iii). Xác lập môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, tạo ra “sân chơi” tích cực cho mọi tổ chức, cá nhân tham gia phát triển kinh tế; nhất là các doanh nghiệp.

(iv). Xây dựng định hướng chiến lược, quy hoạch, mô hình tăng trưởng - phát triển theo chiều sâu, phù hợp, hiệu quả;

(v) Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho sự phát triển chung của đất nước; đặc biệt là phát triển theo hướng bền vững.

Thể chế xã hội có các vai trò chủ yếu sau:

(i). Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng và bao trùm, đảm bảo đời sống, việc làm, để “không ai bị bỏ lại phía sau”;

(ii). Đảm bảo công bằng, bình đẳng xã hội; nâng cao năng lực tự chủ, tự quản của các tổ chức xã hội, của các cộng đồng dân cư.

(iii). Đảm bảo an ninh con người, an ninh xã hội, trật tự an toàn xã hội;

(iv). Đảm bảo các điều kiện ngày càng thuận lợi cho sự phát triển văn hóa, xã hội và con người được phát triển ngày càng toàn diện, cuộc sống ngày càng hạnh phúc.

Thể chế môi trường sinh thái: có vai trò đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa con người, xã hội và tự nhiên, bảo vệ môi trường bền vững cho cuộc sống của con người và các thế hệ mai sau. Đặc biệt chú trọng yêu cầu phát triển xanh, giảm phát thải (sản xuất và tiêu dùng xanh). Ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Thể chế hội nhập quốc tế (được tách ra thành một thể chế thành phần độc lập tương đối) có vai trò cơ bản là “kết nối sức mạnh của dân tộc với với sức mạnh của thời đại”, với những giá trị chung của nhân loại; kiến tạo môi trường chiến lược có lợi nhất cho sự phát triển đất nước; tạo nên sức mạnh tổng hợp để đất nước phát triển nhanh - bền vững.

Thể chế phát triển nhanh, bền vững được xây dựng phù hợp, có chất lượng sẽ đảm bảo sự tăng trưởng - phát triển với tốc độ cao; đồng bộ giữa các lĩnh vực, không ngừng làm tăng nội lực và năng lực độc lập - tự chủ của quốc gia. Đảm bảo tính bền vững trong quá trình phát triển cả về chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái và quốc phòng, an ninh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với môi trường thế giới có nhiều những biến động đột biến, khó lường.

3. Khái quát định hướng các giải pháp xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh, bền vững

(i) - Cần nhận thức rõ tính hệ thống, đồng bộ, phù hợp, hiệu quả trong nhận thức, xây dựng và thực thi thể chế phát triển nhanh, bền vững.

Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để đạt được các mục tiêu rất cao này, đất nước cần thiết phải chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, vào nguồn lực con người chất lượng cao, trình độ cao. Điều này đòi hỏi phải xây dựng và tổ chức thực hiện hiệu quả thể chế phát triển nhanh - bền vững, trong đó bảo đảm sự đồng bộ giữa thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội, thể chế bảo vệ môi trường sinh thái, và thể chế hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh yêu cầu phát triển nhanh, hội nhập với môi trường quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khó lường, có nhiều cơ hội lớn gắn liền với những thách thức không nhỏ, đặt ra yêu cầu xây dựng thể chế phát triển phải phát huy cao nhất các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời phải đáp ứng các xu thế phát triển khách quan trên thế giới.

Phải thể hiện mối quan hệ biện chứng trong thể chế phát triển là: Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước”; thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm; thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội, thể chế bảo vệ môi trường sinh thái đóng vai trò đảm bảo sự phát triển hài hòa với tự nhiên, thể chế hội nhập quốc tế đóng vai trò kết nối sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Thể chế phát triển được xây dựng phù hợp, đồng bộ sẽ tạo được mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới - ổn định - phát triển; tạo động lực cho đất nước phát triển nhanh, bền vững; trong đó phát triển là mục tiêu, đổi mới là động lực, ổn định là điều kiện. Cần nhận thức rõ mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển là “mối quan hệ động”, cần được xác định phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển cụ thể, trong từng lĩnh vực cụ thể, trong mỗi giai đoạn phát triển.

(ii) - Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị

Trong bối cảnh phát triển mới, thể chế chính trị (trước hết thể hiện ở vai trò lãnh đạo - cầm quyền của Đảng) đòi hỏi phải đổi mới có “tính vượt trước”, tính định hướng dẫn đường, thể hiện ở nắm bắt xu thể phát triển của thế giới, nhu cầu phát triển khách quan của đất nước, để định ra đường lối, chiến lược, mục tiêu, mô hình phát triển có luận cứ khoa học - thực tiễn đúng đắn, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững. Đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: Nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo - cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị; nâng cao năng lực định hướng và hoạch định chiến lược, chính sách phát triển, năng lực dự báo và điều chỉnh chiến lược phát triển; xác định, xây dựng, thực thi, bảo vệ và tôn vinh các giá trị con người, giá trị công dân, giá trị xã hội, giá trị cộng đồng, giá trị dân tộc; nhất là các giá trị dân chủ, sáng tạo, trách nhiệm xã hội, đáp ứng với yêu cầu phát triển mới. Đây là động lực nội sinh cốt lõi của sự phát triển bền vững. Trên cơ sở xác định rõ và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, triển khai xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;xây dựng và thực hiện hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ.

Về Đảng: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo - cầm quyền, định hướng chiến lược phát triển, thật sự là lực lượng tiêu biểu về “trí tuệ, đạo đức, văn minh” (Hồ Chí Minh), đây là nhân tố quyết định trong việc lãnh đạo xây dựng và thực thi có hiệu lực, hiệu quả thể chế phát triển nhanh - bền vững. Phải đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nhất là lãnh đạo - cầm quyền đối với Nhà nước; hoàn thiện thể chế để Đảng thực hiện tốt vai trò và sứ mệnh đã được nêu trong Cương lĩnh của Đảng và hiến định trong Hiến pháp 2013: “Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Điều đó đặt ra yêu cầu Đảng phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức, cơ chế lãnh đạo hệ thống chính trị, nhất là lãnh đạo - cầm quyền đối với Nhà nước pháp quyền (phù hợp với từng nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp).

Tiếp tục hoàn thiện thể chế dân chủ trong đảng, thực hiện nghiêm túc chế độ tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo - cá nhân phụ trách, nhất là đối với các cán bộ cao cấp, những người đứng đầu. Dân chủ trong Đảng phải trở thành biểu tượng dân chủ trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Đồng thời phải hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực trong Đảng gắn đồng bộ với thể chế kiểm soát quyền lực trong hệ thống Nhà nước và từ xã hội, từ nhân dân.

Hoàn thiện đồng bộ thể chế Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, thực sự là “công bộc của dân”, gắn bó với nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích quốc gia - dân tộc cao hơn lợi ích cá nhân, có đủ phẩm chất và năng lực thực thi có hiệu quả nhiệm vụ được giao.

Về Nhà nước: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN - nhà nước quản lý - quản trị kiến tạo phát triển thực sự “của dân, do dân, vì dân”, “thượng tôn pháp luật”, với bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả. Hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tha hóa quyền lực, “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan liêu, xa dân. Xây dựng nền hành chính công khai, mimh bạch, “liêm chính - kỷ cương - hành động - sáng tạo - hiệu quả”. Nâng cao năng lực xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách, năng lực chỉ đạo tổ chức thực hiện; nâng cao năng lực “phản ứng” chính sách trong bối cảnh biến đổi phức tạp và nhanh chóng của thể giới, khu vực.

Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn để xây dựng mô hình, cấu trúc hệ thống tổ chức, bộ máy nhà nước pháp quyền phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới; trong đó thể hiện rõ các nguyên tắc tập trung thống nhất, phân công, phân cấp, phân quyền giữa các cấp; vừa đảm bảo có hiệu quả vai trò quản lý thống nhất của trung ương, vừa phát huy cao vai trò tự chủ, tự quản của các cấp chính quyền cấp dưới.

Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý nhà nước trong tất cả các lĩnh vực theo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền; xây dựng hệ thống chính quyền từ trung ương xuống cơ sở (cả nông thôn và thành thị) theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “thực đức - thực tài”, thực sự là “công bộc của dân”.

(iii) - Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam, theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế

- Hoàn thiện thể chế về mối quan hệ giữa nhà nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc “nhà nước mạnh - thị trường hiệu quả - xã hội (doanh nghiệp và người dân) năng động, sáng tạo”; nhằm tạo sự cộng hưởng phát huy những mặt mạnh của Nhà nước, thị trường và xã hội; đồng thời hạn chế, khắc phục những bất cập, “thất bại” của cả Nhà nước, thị trường và xã hội, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhà nước mạnh không phải là Nhà nước “to” về bộ máy, đông về đội ngũ công chức; mà phải là một Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển, quản trị phát triển, có chiến lược phát triển đúng đắn, mạnh về xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển, mạnh về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức; mạnh về quản lý vĩ mô, về năng lực quản lý, quản trị phát triển, mạnh về năng lực phản ứng chính sách trước những biến đổi của môi trường phát triển… 

- Hoàn thiện thể chế để nâng cao chất lượng kinh tế vĩ mô, đây là yêu cầu rất quan trọng đi liền với giữ vững ồn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng và thực thi có hiệu quả chiến lược, mô hình, cơ chế, chính sách chuyển đổi sang phát triển theo chiều sâu (chung của cả nền kinh tế và riêng từng ngành, lĩnh vực). Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu đầu tư (nhất là thể chế đầu tư công), tài cơ cấu nền tài chính - tín dụng theo hướng công khai, minh bạch, nâng cao tính cạnh tranh, nâng cao chế độ trách nhiệm, giảm tối đa các thủ tục hành chính.

- Hoàn thiện thể chế để thúc đẩy phát triển đồng bộ, hiệu quả các khu vực, thành phần kinh tế (nhà nước, tư nhân, tập thể, FDI…), nhằm phát huy cao vai trò khách quan của từng khu vực, chủ thể. Xây dựng thể chế kết nối các thành phần kinh tế (vốn đang có rất ít kết nối với nhau), trở thành một thực thể hữu cơ, gắn kết với nhau, thúc đẩy phát triển mạnh nội lực nền kinh tế dân tộc. Nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào đầu tư FDI và thị trường nước ngoài. Điều chỉnh định hướng, chiến lược và cơ chế chính sách thu hút FDI để nâng cao chất lượng và hiệu quả tổng hợp đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước. Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân theo chiều sâu, cả về quy mô và chất lượng, trở thành lực lượng trọng yếu phát triển đất nước.

- Hoàn thiện thể chế để đấy mạnh quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại; phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Xây dựng và thực thi có hiệu quả thể chế mang tính vượt trội để kịp thời đón nhận phát triển các phương thức, mô hình sản xuất kinh doanh mới (đang hình thành và phát triển rất nhanh như nền kinh tế số, nền kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng Blockchain…). Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhằm tạo động lực đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ mới, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng phù hợp, có hiệu quả vào trong sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; tạo động lực cốt lõi cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, phát triển xanh, bền vững.

- Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế sở hữu, trong đó có thể chế đất đai, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực cho phát triển. Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch; đẩy mạnh việc cắt giảm điều kiện và thủ tục sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể, theo hướng có sự chia sẻ về trách nhiệm, quyền lợi, rủi ro…để tạo lập các chuỗi sản xuất kinh doanh, chuỗi giá trị bền vững; tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.

(iv) - Đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển xã hội

Hoàn thiện thể chế và thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, tập trung vào những nội dung sau:

- Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển các lĩnh vực văn hóa (xây dựng và thực thi có hiệu quả các hệ giá trị: con người, gia đình, văn hóa, xã hội, quốc gia - dân tộc; phát triển công nghiệp văn hóa…); tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục - đào tạo (tập trung vào nâng cao chất lượng phát triển con người, phẩm chất và năng lực, nhất là năng lực sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao…); Đẩy mạnh phát triển toàn diện, đồng bộ, hiệu quả lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe (tập trung vào hoàn thiện hệ thống y tế bao trùm, hiệu quả; hệ thống chính sách khám chữa bệnh phù hợp gắn liền với phát triển hệ thống bảo hiểm y tế bao trùm, bền vững…).

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự phân phối, điều tiết tương đối hài hòa cơ hội phát triển, thành quả, lợi ích phát triển giữa các tầng lớp xã hội, giữa các khu vực; hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách giàm nghèo đa chiều bền vững; hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội, “không để ai tụt lại phía sau”.

- Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách để phát huy cao độ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư, trong việc tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước và trong hoạt động “tư chủ - tự quản” theo pháp luật, vì lợi ích của các thành viên. Thực hiện có hiệu quả dân chủ xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở; xây dựng và thực thi có hiệu quả cơ chế giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các tổ chức Đảng và Nhà nước. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách để phát triển và nâng cao năng lực tự chủ - tự quản của các cộng đồng dân cư.

- Thực hiện có hiệu quả quyền tiếp cận thông tin của nhân dân; các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước, các càn bộ và đảng viên phải thực thi nghiêm túc trách nhiệm giải trình trước nhân dân; xử lý nghiêm, công khai, minh bạch các vi phạm pháp luật, để nâng cao lòng tin của nhân dân, sự đồng thuận xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

(v) - Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu

Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, lại là một trong những nước chịu sự tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu, dó đó vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái là một nội dung hữu cơ, trọng yếu của phát triển nhanh - bền vững. Phải quán triệt và thực thi nghiêm túc quan điểm “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”; xác định vấn đề bảo vệ và sử dụng có hiệu quả, bền vững các tài nguyên của đất nước là một nội dung quan trọng của an ninh quốc gia. Cần đặc biệt quan tâm đến xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách đảm bảo an ninh nguồn nước, an ninh môi trường quốc gia.

Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng và phát triển bền vững (hướng tới xây dựng và phát triển nền kinh tế xanh, sử dụng năng lượng xanh, sản xuất xanh và tiêu dùng xanh). Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng huỷ hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị và ở nông thôn. Xây dựng chiến lược và thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp công trình và phi công trình trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở các địa phương, trong từng lĩnh vực; phấn đấu hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

(vi) - Tiếp tục hoàn thiện thể chế hội nhập quốc tế để đưa quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, hiệu quả hơn trong tất cả các lĩnh vực

Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế phù hợp, hiệu quả trong giai đoạn mới (chung và cụ thể cho từng lĩnh vực). Trong bối cảnh quốc tế và khu vực diến biến rất phức tạp, nhiều biến động khó lường, đòi hỏi phải chủ động điều chỉnh kịp thời chiến lược và cơ chế, chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa có tầm nhìn dài hạn, vừa ứng phó có hiệu quả, giảm tác động tiêu cực đối với sự phát triển của đất nước; có những đối sách để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Chủ động tham gia kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển và bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước; đẩy mạnh tham gia vào các quan hệ đa phương và song phương; tham gia vào các chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và các giải pháp để thực hiện có hiệu quả các hiệp định và cam kết quốc tế.

(vii) - Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của tất cả các chủ thể

Xây dựng thể chế phát triển có chất lượng và thực thi hiệu quả đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp và cơ chế, chính sách đề nâng cao năng lực của tất cả các chủ thể, gắn với phát triển theo chiều sâu (như năng lực ban hành thể chế, lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện thể chế, năng lực thực thi thể chế…). Phải chế định các cơ chế và thiết chế thực thi thể chế nghiêm túc, “nói đi đôi với làm”, “thượng tôn pháp luật”. Sự đồng bộ giữa ban hành và thực thi thể chế đòi hỏi phải nâng cao năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của tất các chủ thể, từ người lao động đến tầng lớp lãnh đạo các cấp. Chất lượng của thể chế và hiệu lực, hiệu quả thực thi thể chế của tất cả các chủ thể là nhân tố quyết định đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới./.

PGS.TS Trần Quốc Toản

Chuyên gia cao cấp

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia 2011.
  2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng cộng sản Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016.
  3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng cộng sản Việt Nam; NXB CTQGST, Tập 1, Tập 2, Hà Nội - 2021
  4. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 Hội nghị lần thứ nămcủa Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
  5. Xác định và luận giải nội dung giải pháp đột phá thúc đẩy quá trình đổi mới giai đoạn 2016 - 2020; PGS.TS Trần Quốc Toản, chuyên đề, Hội đồng Lý luận Trung ương, 2015.
  6. PGS.TS. Trần Quốc Toản (Chủ biên), GS.TS. Phùng Hữu Phú (Đồng chủ biên) , GS.TS. Tạ Ngọc Tấn (Đồng chủ biên): Thể chế phát triển nhanh - bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong giai đoạn mới; NXB CTQGST, Hà Nội - 2019.
  7. Thể chế (Institution),Lê Hồng Hiệp, nguồn:Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên),TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013.
  8. Một số nét mới về thể chế chính trị và bộ máy nhà nước một số quốc gia trên Thế giới; ThS. Nguyễn Thị Quỳnh Giang, Viện khoa học tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ, Thứ sáu, 07/07/2018.
  9. Quan điểm của Đảng về xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị trong thời kỳ đổi mới; Nguyễn Văn Hùng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, 05/02/2018.
  10. Vai trò của thể chế trong phát triển; PGS,TS Phạm Thị Túy, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Tạp chí Lý luận chính trị , số 3-2014
  11. Geoffrey Hodgson (2006) “What Are Institutions?” Journal of Economic Issues, XL:1, 1-25.
  12. Douglass C. North: “Institutions”. The Journal of Economic Perspectives, Vol. 5, No. 1, (Winter, 1991). Published by: American Economic Association.
  13. Aoki, Masahiko. Toward a Comparative Institutional Analysis. Cambridge: MIT Press, 2001; Crawford, Sue E. S., and Elinor Ostrom. “A Grammar of Institutions.” American Political Science Review 89, no. 3 (September 1995): 582–600
  14. Daron Acemoglu - Jemes Robinson, Why Nations fail, Crown Publishers, N.Y. 2012.