Báo cáo Quốc hội ý kiến về chủ trương đầu tư dự án vành đai 4, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đề nghị làm rõ việc cùng quy mô đầu tư, nhưng tuyến vành đai 4 vùng thủ đô Hà Nội lại có suất đầu tư cao gấp 1,2 lần đường vành đai 3 TP.HCM. Cơ quan này kiến nghị xem xét lại việc tính toán phương án tài chính của 2 dự án.
Theo đó, đối với phạm vi đầu tư, KTNN cho rằng, tờ trình của Chính phủ chưa làm rõ sự cần thiết phải đầu tư phần đường song hành hai bên đường vành đai và chưa đánh giá mức độ ảnh hưởng của hệ thống đường song hành trong phương án thu phí đường cao tốc.
KTNN đề nghị Chính phủ chỉ đạo UBND TP Hà Nội làm rõ vấn đề này do việc kết nối liên vùng đã được đảm bảo bởi tuyến cao tốc và tuyến đường cao tốc chủ yếu đi trên cao nên không ảnh hưởng nhiều tới mạng lưới giao thông hiện trạng.
Ngoài ra, việc đầu tư 2 tuyến song hành sẽ ảnh hưởng tới phương án tài chính của dự án do sẽ có sự phân lưu phương tiện giao thông vì người dân sẽ ưu tiên lựa chọn 2 tuyến song hành do không phải trả phí.
Với dự án thành phần nhóm 3 gồm đường, cầu cạn, nút giao, cầu, hầm, trạm thu phí, KTNN cho biết tổng chiều dài tuyến của dự án lớn hơn tổng chiều dài tuyến đường (dài hơn 12,5 km cầu cạn), tương ứng 4.487 tỉ đồng. Ngoài ra, việc tính khối lượng cầu cạn sang cầu vượt dòng chảy làm tăng giá trị khoảng 549,21 tỉ đồng.
Bên cạnh đó, theo Kiểm toán Nhà nước, việc tính khối lượng cầu cạn sang cầu vượt dòng chảy làm tăng giá trị khoảng 549,21 tỉ đồng.
Về giải phóng mặt bằng (GPMB), chi phí dự kiến khoảng 19.500 tỉ đồng nếu tính toàn bộ số hộ bị mất đất đều nằm trong diện tái định cư. Điều này, theo KTNN, làm tăng chi phí hỗ trợ thuê nhà, giải phóng mặt bằng, xây khu tái định cư.
Về phương án thiết kế sơ bộ, KTNN đề nghị tính toán, so sánh với giải pháp sử dụng giải phân cách cứng giống như dự án cao tốc Hà Nội – Hải Phòng. Vì khi sử dụng giải pháp này sẽ tiết kiệm được diện tích sử dụng đất khoảng 11 héc-ta đất nông nghiệp do mặt cắt ngang sẽ giảm được 3 mét trên đoạn tuyến đi thấp dài 37 km.
Theo KTNN, việc làm trên sẽ giúp giảm chi phí giải phóng mặt bằng, giảm khối lượng đào đắp nền đường, rút ngắn thời gian thi công, giảm chi phí trong quá trình duy tu bảo dưỡng dẫn đến giảm chi phí đầu tư và mang lại hiệu quả hơn cho dự án.
Trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của dự án, mặt cắt ngang của các đoạn đi thấp trong giai đoạn phân kỳ đang thiết kế dốc 2 mái mà chưa nghiên cứu, tính toán phương án thiết kế dốc 1 mái để giảm chi phí bê tông nhựa bù vênh.
Với những cơ sở trên, KTNN đề nghị Chính phủ chỉ đạo UBND thành phố Hà Nội và cơ quan liên quan rà soát kỹ sơ bộ tổng mức đầu tư của dự án, tính khả thi của sơ bộ tổng mức đầu tư, đồng thời nghiên cứu, tham khảo số liệu tổng mức đầu tư của các dự án tương tự để xác định sơ bộ tổng mức đầu tư cho phù hợp.
Cơ quan này cũng đề nghị làm rõ việc cùng quy mô đầu tư, nhưng tuyến vành đai 4 – vùng thủ đô Hà Nội lại có suất đầu tư cao gấp 1,2 lần đường vành đai 3 – TPHCM.
Cụ thể, vành đai 4 – vùng thủ đô Hà Nội có suất đầu tư trung bình 513 tỉ đồng mỗi km, còn dự án vành đai 3 – TP.HCM có suất đầu tư trung bình 442 tỉ đồng mỗi km dù cả hai đều có quy mô 4 làn cao tốc. Ngoài ra, lưu lượng phương tiện của dự án vành đai 4 dự kiến chỉ bằng 80% lưu lượng dự án vành đai 3.
Ngày 20/5, HĐND TP Hà Nội thông qua nghị quyết bố trí hơn 23.000 tỷ đồng cho dự án đầu tư xây dựng Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tuyến vành đai này dài 112,8 km, qua 3 tỉnh, thành phố: Hà Nội (58,2 km), Hưng Yên (19,3 km), Bắc Ninh (25,6 km) và tuyến nối khoảng 9,7 km. Điểm đầu tại Km3+695 trên cao tốc Nội Bài - Lào Cai (xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội); điểm cuối Km40+500 trên cao tốc Nội Bài - Hạ Long (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh).
Dự án được chia thành 3 nhóm với 7 dự án thành phần, bao gồm: Nhóm 1 với 3 dự án giải phóng mặt bằng ở Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên. Nhóm 2 có 3 dự án đầu tư xây dựng đường song hành triển khai ở 3 địa phương trên. Nhóm 3 với một dự án thành phần đầu tư xây dựng cao tốc theo phương thức đối tác công tư (PPP), loại hợp đồng BOT.
Nguồn vốn đầu tư dự kiến hơn 85.800 tỷ đồng, trong đó từ ngân sách TP Hà Nội là hơn 23.000 tỷ đồng, được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn 2021-2025 giải ngân trên 19.000 tỷ đồng, giai đoạn 2026-2030 hơn 4.000 tỷ đồng. Tiến độ và thời gian thực hiện dự án từ năm 2022 đến 2027.