Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện thân mật với các đại biểu tôn giáo trong Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1960 - Ảnh www.baochinhphu.vn/bqllang.gov.vn
Tóm tắt: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho các thế hệ sau di sản tư tưởng quý báu về nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, nhằm mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam, góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, thịnh vượng, mọi người đều được phát triển toàn diện.
Mặc dù Người không trình bày hệ thống lý luận về bản chất, nguồn gốc, tính chất tôn giáo... nhưng tư tưởng của Người về tôn giáo lại có sự độc đáo, thể hiện tính sáng tạo và đặc biệt là thẫm đẫm giá trị nhân văn và phát triển. Từ những bài viết, bài nói, những lời di huấn về tôn giáo cho đến những cử chỉ, hành động, sự ứng xử của Người đối với chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo đều luôn thể hiện sự tinh tế trong tiếp cận tôn giáo, sự am tường sâu sắc về văn hóa, tôn giáo Việt Nam, tinh thần khoan dung, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Chính vì vậy, chính sách “tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo” do Người khởi xướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện đã có sức lan tỏa lớn lao, cảm hóa được đông đảo đội ngũ chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo, giúp họ xóa bỏ mặc cảm, đồng lòng, đồng sức tích cực tham gia sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ khóa: Hồ Chí Minh, Đoàn kết tôn giáo, Đại hội XIII
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
Đoàn kết tôn giáo là một nội dung nổi bật và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Người khẳng định rõ mục tiêu của đoàn kết tôn giáo là nhằm mục tiêu hòa bình thống nhất Tổ quốc và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
Thứ nhất, kế thừa truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc và những yếu tố tích cực trong tư tưởng của các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng tiền bối. Từ lịch sử và thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra một bài học vô giá cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Cùng với kế thừa truyền thống đoàn kết của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng đoàn kết lương giáo của các sĩ phu yêu nước tiêu biểu như Cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu và của các văn thân tiến bộ khác đầu thế kỷ XX.
Thứ hai, kế thừa tinh hoa văn hóa Đông - Tây về hòa hợp tôn giáo và truyền thống tồn tại đan xen, hòa đồng của các tôn giáo ở Việt Nam. Bản thân trong nhiều triết thuyết và giáo lý tôn giáo, có đề cập đến vấn đề sống hòa hợp, cố kết cộng đồng trên tinh thần bình đẳng, nhân ái. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu những giá trị hợp lý trong các triết thuyết, tôn giáo cũng như tư tưởng đoàn kết xã hội, đoàn kết dân tộc của các nhà cách mạng đương thời như Tôn Trung Sơn, J.Nê ru,...Bên cạnh đó, chính đặc điểm tồn tại đan xen, hòa đồng giữa các tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta cũng là cơ sở để Hồ Chí Minh khẳng định tính quy luật của đoàn kết tôn giáo.
Thứ ba, kế thừa quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng. Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó” . Nhận thức rõ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là mang tính tất yếu nếu muốn sự nghiệp cách mạng giành được thắng lợi, Người đã đưa ra kết luận chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Thứ tư, chống âm mưu lợi dụng tôn giáo để chia rẽ dân tộc, chống phá cách mạng của kẻ thù. Các thế lực thực dân, đế quốc luôn âm mưu chia rẽ, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc để dễ bề thôn tính, nô dịch dân tộc Việt Nam. Trên thực tế, những âm mưu lợi dụng tôn giáo của thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai đã gây ra không ít tổn thất cho cách mạng. Vì vậy, đoàn kết lương giáo là nhằm chống lại âm mưu thâm độc, lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của kẻ thù.
Nội dung đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Hồ Chí Minh, đồng bào tôn giáo là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam; đoàn kết tôn giáo nằm trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc và không ngoài mục đích là để dành độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh, mọi người dân dù có hay không có tôn giáo, dù theo các tôn giáo khác nhau, đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và có điều kiện phát triển toàn diện. Nội dung cơ bản của đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: Đoàn kết giữa đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo với đồng bào không có tín ngưỡng tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào có các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau; đoàn kết giữa đồng bào trong mỗi một tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Đoàn kết giữa đồng báo có tín ngưỡng, tôn giáo với đồng bào không tín ngưỡng tôn giáo là nội dung trọng tâm hàng đầu được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Người nhận thức rõ, do sự chi phối của ý thức tôn giáo, nên đồng bào các tôn giáo có những nét khác biệt nhất định về thế giới quan, nhân sinh quan, niềm tin và giá trị, chuẩn mực văn hóa, .. so với đồng bào không theo tín ngưỡng tôn giáo. Do sự khác biệt đó, nếu không có sự nhìn nhận đúng đắn và lòng khoan dung, rất dễ dẫn tới sự mặc cảm, kỳ thị lẫn nhau. Bởi vậy, muốn thực hiện đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải thực hiện đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào không theo đạo. Điều đó theo Người hoàn toàn có thể thực hiện được, vì đồng bào dù lương hay giáo đều có lòng yêu nước và mong muốn có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Người nhấn mạnh: “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc” .
Thực hiện đoàn kết giữa đồng bào có đạo và không theo đạo, vấn đề quan trọng là không được phân biệt đối xử vì lý do có tín ngưỡng tôn giáo hay không. Mọi người phải được bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ. Trong cuộc tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v..” .
Một vấn đề được nhiều đồng bào có đạo quan tâm là liệu những người cộng sản, là những người có lập trường vô thần, có thật sự đoàn kết với quần chúng tín đồ các tôn giáo hay không? Đây cũng là vấn đề thường bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc tuyền truyền xuyên tạc nhằm làm cho đồng bào có đạo mất niềm tin vào chế độ mới. Thấu hiểu và thông cảm với những băn khoăn, vướng mắc trong nhận thức, tình cảm của đồng bào có đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: Mục đích Đảng, Chính phủ theo đuổi là chiến đấu vì độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Song, để đạt được mục đích đó cho mọi người, cần xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh còn giải thích cho đồng bào hiểu rõ lý tưởng tôn giáo có sự tương đồng với mục tiêu, lý tưởng cộng sản, vì vậy, việc đồng bào các tôn giáo đoàn kết, thi đua yêu nước, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ là hoàn toàn phù hợp với ý nguyện của Đức Chúa, Đức Phật.
Trong việc đoàn kết giữa những người cộng sản và những người có tín ngưỡng, tôn giáo, có vấn đề nhạy cảm mà cán bộ, đảng viên cũng như đồng bào có đạo thường có mặc cảm, thành kiến, đó là vấn đề kết nạp đảng viên là người có đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết vấn đề nêu một cách thỏa đáng, vừa có lý, vừa có tình. Người khẳng định rõ sự khác biệt về thế giới quan giữa người cộng sản và người có đạo, giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng không vì thế mà ngăn cản chức sắc, tín đồ tôn giáo muốn vào Đảng để được phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo, vì vậy, để xây dựng được khối đoàn kết dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cùng với đoàn kết giữa đồng bào không có tín ngưỡng tôn giáo và đồng báo có tín ngưỡng tôn giáo, còn phải đoàn kết giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong hoàn cảnh mất nước, đồng bào các tôn giáo cùng chung cảnh bị áp bức, bóc lột nặng nề, sống trong cảnh lầm than. Nước có độc lập thì các tôn giáo mới được tự do, vì vậy, đồng bào các tôn giáo cần đoàn kết với nhau trong khối đoàn kết dân tộc vì mục tiêu giải phóng dân tộc.
Thực tế cho thấy, các tôn giáo thường bao gồm rất nhiều tín đồ có thành phần xã hội khác nhau, bản thân vị trí của các nhà tu hành, chức sắc và tín đồ trong tôn giáo cũng khác nhau, nên tư tưởng, thái độ, tình cảm và thậm chí cả đức tin có những điểm khác nhau là điều bình thường.
Nhưng vì vậy, theo Hồ Chí Minh càng phải chú trọng tới đoàn kết trong nội bộ các tôn giáo vì mục tiêu chung của dân tộc. Do đó, Người nhiều lần kêu gọi đồng bào các tôn giáo và nhắn nhủ các vị chức sắc,nhà tu hành tôn giáo cần đoàn kết thật tốt trong nội bộ từng tôn giáo trên cơ sở cùng phấn đấu vì độc lập dân tộc và cuộc sống “phần xác ấm no, phần hồn thong dong” của đồng bào. Theo Người, để đoàn kết trong nội bộ tôn giáo theo tinh thần đó, các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ mỗi tôn giáo cần thực hiện lối sống “tốt đời, đẹp đạo”: với đồng bào Công giáo đó là “kính chúa yêu nước”, với đồng bào Phật giáo đó là “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”,vv.. Với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo, Người yêu cầu không chỉ bản thân thực hiện tốt phương châm đó mà còn phải tuyên truyền, khuyến khích tín đồ trong mọi công việc ích nước, lợi dân. Đặc biệt, Người rất coi trọng việc nêu gương người tốt, việc tốt trong đồng bào tôn giáo, coi đó là hạt nhân để đoàn kết nội bộ tôn giáo và đoàn kết dân tộc.
Phương châm, biện pháp đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh có thể được khái quát trong phương châm: Rộng rãi - Toàn diện - Nhất quán - Chặt chẽ - Lâu dài. Đối tượng đoàn kết tôn giáo theo Hồ Chí Minh rất rộng lớn, đoàn kết không chỉ giữa đồng bào lương và đồng giáo, giữa đồng bào các tôn giáo với cán bộ, đảng viên mà còn giữa đồng bào các tôn giáo với nhau và giữa đồng bào trong từng tôn giáo nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết tôn giáo phải mang tính toàn diện, đoàn kết trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, vv.. Đoàn kết tôn giáo phải mang tính nhất quán, từ chủ trương, chính sách, pháp luật đến tổ chức thực hiện; từ tư tưởng, tình cảm đến hành vi ứng xử đều phải thể hiện tinh thần đoàn kết; trong mọi hoàn cảnh, điều kiện đều phải có tinh thần đoàn kết. Không những vậy, đoàn kết tôn giáo phải chặt chẽ, thật lòng. Đồng thời, theo Người, đoàn kết lương giáo không phải là một thủ đoạn chính trị mà là một chính sách lâu dài; là bộ phận quan trọng trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc với phương châm: “Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Hồ Chí Minh là hiện thân của tinh thần đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc. Người không chỉ đề ra chính sách đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc một cách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và nguyện vọng của nhân dân, mà còn là tấm gương mẫu mực trong đoàn kết với đồng bào các tôn giáo. Phương pháp đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng của Người vừa mang tính khoa học, sát hợp với thực tiễn, vừa mang tính nhân văn sâu sắc:
Một là, “Cầu đồng, tôn dị”, tìm kiếm, phát huy những điểm tương đồng, đồng thời tôn trọng sự khác biệt, để đi tới sự thống nhất. Hai là, lấy lợi ích của quốc gia dân tộc và quyền lợi căn bản của nhân dân làm mẫu số chung để đoàn kết tôn giáo. Ba là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Bốn là, tôn trọng, đề cao nhân cách các vị sáng lập tôn giáo và vai trò của chức sắc, nhà tu hành tôn giáo. Năm là, quan tâm đến đời sống của đồng bào các tôn giáo.
2. Sự vận dụng quan điểm của Đảng về tôn giáo trong Văn kiện Đại hội XIII
Quan điểm của Đảng về vấn đề tôn giáo trong Văn kiện Đại hội XIII được diễn đạt ở các chương mục khác nhau nhưng tập trung ở 3 nội dung chính như sau:
Thứ nhất, văn kiện đã đề cập toàn diện về tôn giáo và công tác tôn giáo.
Trong 10 văn bản trình bày ở 2 tập của văn kiện, có 4 văn bản đề cập trực tiếp các nội dung liên quan đến tôn giáo. Đây là lần đầu tiên Đảng ta đề cập trực tiếp các nội dung về tôn giáo và công tác tôn giáo một cách toàn diện, có trọng điểm với dung lượng nhiều nhất so với các kỳ đại hội trước đó. Cụ thể:
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, trong hệ thống các nhiệm vụ trung tâm và giải pháp chủ yếu thứ năm, Đảng ta nhấn mạnh: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong phần xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam, Đảng ta nêu rõ: “Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan”.
Đối với nhiệm vụ, giải pháp thực hiện về công tác tôn giáo, Đảng ta khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta xác định: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội”.
Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Đảng ta đã đánh giá những thành tựu và hạn chế liên quan đến tôn giáo. Về thành tựu: “Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo”. Về hạn chế: “Quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi”. Về dự báo bối cảnh quốc tế và khu vực, Đảng ta chỉ rõ: “Chủ nghĩa dân tộc, cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo... là những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia”. Về nhiệm vụ, giải pháp, Đảng ta nhấn mạnh: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”.
Thứ hai, Đảng ta đánh giá khách quan, khái quát những điểm cốt lõi về tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta.
Đảng ta đánh giá: “Tình hình tôn giáo ổn định” là hoàn toàn chính xác. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong những năm gần đây, các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện và bảo đảm hoạt động, sinh hoạt tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật. Không có những mâu thuẫn giữa các tôn giáo và trong nội bộ từng tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo luôn có sự phối hợp, liên kết dưới mái nhà chung Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở các cấp để tham gia các hoạt động ích nước, lợi dân, được chính quyền và xã hội đánh giá cao.
Đảng, Nhà nước ta trân trọng ghi nhận, biểu dương những kết quả, đóng góp của đồng bào có đạo trong sự nghiệp cách mạng nói chung, thời kỳ đổi mới nói riêng, đó là: luôn yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; phát huy lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp của con người, văn hóa Việt Nam và những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo đã luôn kề vai sát cánh, đồng hành cùng dân tộc, có những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, thông qua các hoạt động (cả trong nước và quốc tế), các tôn giáo, tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã góp phần quan trọng trong quảng bá hình ảnh một Việt Nam văn hiến, thân thiện, hòa bình, nhân ái, làm cho bạn bè quốc tế có cái nhìn thiện cảm, chính xác về Việt Nam, về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo.
Đảng ta cũng chỉ ra những hạn chế cơ bản, nổi cộm về tôn giáo, đó là: quản lý nhà nước về tôn giáo có mặt còn hạn chế và còn có các hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi. Đây cũng là một trong những vấn đề được dư luận hết sức quan tâm trong thời gian qua.
Trong dự báo tình hình quốc tế và khu vực thời gian tới, Đảng ta xác định, vấn đề xung đột tôn giáo là một trong những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia.
Thứ ba, Đảng ta tiếp tục khẳng định và bổ sung một số nội dung về tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình hình mới
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta có nhiều nội dung bổ sung, cập nhật, kế thừa, tiếp thu những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà lãnh đạo, quản lý, quản trị về tôn giáo, các nhà khoa học và tín đồ, chức sắc của các tôn giáo, cụ thể như sau:
Một là, quan điểm tiếp tục phát huy vai trò, tác động tích cực của tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó, Đảng ta nhấn mạnh yếu tố văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ghi rõ: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”.
Ở Việt Nam, các thuật ngữ: “nguồn lực tôn giáo”, “nguồn lực các tôn giáo”, “các nguồn lực của các tôn giáo”… mới được đề cập mấy năm trở lại đây. Tuy chưa có công trình nào nghiên cứu một cách công phu, toàn diện cả về nội hàm và ngoại diên các thuật ngữ trên, song ít nhiều các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý, quản trị hay chính các chức sắc tôn giáo cũng có quan niệm nhất định về nguồn lực tôn giáo theo các cách tiếp cận khác nhau, tùy thuộc vào ưu thế, sự đóng góp của các tôn giáo nói chung, từng tôn giáo nói riêng trong từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể khác nhau.
Các quan niệm về các nguồn lực của các tôn giáo đều thống nhất ở những điểm sau: khẳng định vai trò của tôn giáo, coi những tác động tích cực của các tôn giáo là một trong những nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đều thừa nhận các nguồn lực của các tôn giáo ở hai phương diện: nguồn lực tinh thần và nguồn lực vật chất, trong đó nhấn mạnh nhiều hơn ở nguồn lực tinh thần - đó là các giá trị về văn hóa, đạo đức tôn giáo; các nguồn lực của các tôn giáo đã tham gia vào tất cả các quá trình, lĩnh vực trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó ưu thế, đóng góp tiêu biểu ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo.
Thuật ngữ “nguồn lực” khi nhận định về những đóng góp của các tôn giáo trong Chỉ thị số 18-CT/TW (2018) của Bộ Chính trị khóa XII tiếp tục được khẳng định và bổ sung thành “các nguồn lực của các tôn giáo”. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Hiện nay, Nhà nước đã công nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước, trên 55.000 chức sắc, gần 150.000 chức việc, gần 30.000 cơ sở thờ tự. 16 tôn giáo gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tôn giáo Baha’I, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Cơ đốc Phục lâm, Phật giáo Tứ Ân Hiếu nghĩa, Minh Sư đạo, Minh lý đạo - Tam Tông Miếu, Bà-la-môn giáo, Mặc môn, Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, Bửu Sơn Kỳ Hương. Quan điểm của Đảng về “các nguồn lực của các tôn giáo” xác định là những nguồn lực của các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận nêu trên. Các nguồn lực của các tôn giáo rất đa dạng: nguồn lực con người có tôn giáo; nguồn lực từ cơ sở vật chất, nguồn vốn, khả năng vận động, huy động tài chính; những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo.... Những nguồn lực này được sử dụng vào việc “Đời”, ích nước, lợi dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát huy trong phát triển đất nước.
Tại Đại hội lần này, Đảng ta tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh đến những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Chúng ta cần phát huy những “nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng”, “giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo” vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan.
Hai là, thực hiện đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đây là mục tiêu trong thực hiện công tác tôn giáo. Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, chính tinh thần đoàn kết để dựng nước và giữ nước, người có đạo khác nhau, giữa người có đạo và không có đạo ở Việt Nam luôn có sự tôn trọng, chung sống hòa hợp. Thế nên, Đảng ta đặt mục tiêu của công tác tôn giáo là đoàn kết tôn giáo trong mục tiêu chung đại đoàn kết toàn dân tộc là phù hợp, kế thừa, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phản ánh đúng ý chí, khát vọng của người Việt Nam hiện nay, trong đó có đồng bào có đạo.
Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người.
Đây là sự khái quát đầy đủ chủ trương nhất quán của Đảng ta đối với vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo. Bảo đảm ở đây bao hàm cả sự tôn trọng, quan tâm, tạo điều kiện về mặt pháp lý lẫn thực tế đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Đối tượng bảo đảm ở đây được mở rộng là “con người”, không những là tổ chức, “nhân dân”, “công dân” ở trong nước mà còn là tổ chức, cá nhân người nước ngoài có tôn giáo khi họ sinh sống, học tập, làm việc ở Việt Nam cũng như người Việt ở nước ngoài khi về quê hương.
Bốn là, sự chủ động trong tiến hành công tác tôn giáo.
Chủ động lắng nghe, giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của nhân dân là quan điểm, thực tiễn sinh động khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo đất nước không thể thay thế được của Đảng Cộng sản Việt Nam. Công tác tôn giáo cũng vậy, cần có sự chủ động để kịp thời phát huy những tác động tích cực, hạn chế, phê phán, đấu tranh, xử lý các biểu hiện tiêu cực liên quan đến tôn giáo.
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định sự chủ động nhằm giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ: 1) Giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng. 2) Phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai nhiệm vụ này cần được tiến hành song song, đề cao tính chủ động của hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan chức năng là hết sức cần thiết.
Năm là, vai trò của quản lý nhà nước về công tác tôn giáo.
Đảng ta đánh giá tầm quan trọng, vai trò của quản lý nhà nước về công tác tôn giáo ở nước ta: “Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”. Quan điểm trên nhấn mạnh đến yếu tố quản lý nhà nước đối với các hoạt động liên quan đến tôn giáo, trong đó quản lý nhà nước về công tác tôn giáo phải là trung tâm, các cơ quan chức năng phải có đủ năng lực, hệ thống luật pháp, cơ chế bảo đảm phù hợp và đảm bảo nâng cao chất lượng hiệu quả tiến hành công tác tôn giáo.
Như vậy, những nội dung liên quan đến tôn giáo, công tác tôn giáo được đề cập trong văn kiện Đại hội XIII thể hiện Đảng ta đã kế thừa, bổ sung, tiếp thu những đóng góp quý báu từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, nhất là nguyện vọng của đồng bào có đạo, phù hợp với thực tiễn sinh động của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Đây là cơ sở định hướng trong nhận thức và thực hiện có hiệu quả công tác tôn giáo, tiếp tục phát huy “các nguồn lực của các tôn giáo” cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đồng thời đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Để phát huy có hiệu quả các nguồn lực của các tôn giáo, chúng ta phải sử dụng tổng hợp các phương thức tác động phù hợp, nhìn nhận khách quan những tác động của tôn giáo đối với xã hội, cả tác động tích cực, tiêu cực, không đề cao quá mức cũng không phủ nhận sự đóng góp của các tôn giáo; có cơ chế, chính sách đúng đắn, kịp thời, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tôn giáo sử dụng các nguồn lực của mình tham gia vào các hoạt động phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tô Thị Thái
Khoa Lý luận Chính trị, KHXH Nhân văn và Tâm lý
Trường Cao đẳng CSND II
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
2. Ban Tôn giáo Chính phủ: Công tác tôn giáo 2021, Nxb. Tôn giáo, H, 2021
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình dành cho hệ
đào tạo Cao cấp lý luận chính trị, Nxb Lý luận Chính trị, HN.
4. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm khoa
học về tín ngưỡng và tôn giáo (1998), Trích tác phẩm của C.Mác-Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, HN, tr. 5 - 137.