Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là nền tảng duy trì, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để đất nước phát triển phồn vinh, thịnh vượng càng trở nên đặc biệt quan trọng, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu tham quan Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Ảnh: Viết Chung
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là nội dung bao trùm, cốt lõi trong hệ thống quan điểm, đường lối quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng, được hình thành trên cơ sở kế thừa, phát triển truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước”, kinh nghiệm, bài học quý báu về tinh thần “cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy” của dân tộc Việt Nam và sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nền quốc phòng chúng ta xây dựng là nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, do nhân dân làm chủ; được xây dựng trên cơ sở sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm nâng cao sức mạnh quốc phòng, khả năng phòng thủ đất nước, bảo đảm đất nước có đủ sức mạnh cần thiết để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược ở mọi loại hình, quy mô, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.
Những năm qua, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát huy tốt vai trò nòng cốt, tham mưu với Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, pháp luật về quân sự, quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Vì vậy, nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn và cả nước, nhất là trên địa bàn chiến lược, trọng điểm ngày càng vững chắc, đi vào chiều sâu. Xây dựng phòng thủ quân khu và khu vực phòng thủ các cấp tiếp tục đạt kết quả tích cực. Toàn quân luôn sẵn sàng chiến đấu cao nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân và các lực lượng xử lý kịp thời, hiệu quả tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ về chiến lược; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thành tựu đạt được trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, nỗ lực và quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; tạo nên thế và lực mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng để đất nước đạt được những “thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(1).
Những năm tới, dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh chóng, rất phức tạp. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều thách thức gay gắt hơn. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện; chạy đua vũ trang, liên kết quân sự, xung đột cục bộ, chiến tranh ủy nhiệm gia tăng. Thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là thành tựu khoa học - công nghệ quân sự, ứng dụng trí tuệ nhân tạo... tiếp tục tác động sâu sắc đến tất cả lĩnh vực, với sự xuất hiện của nhiều hình thái chiến tranh, phương thức, thủ đoạn tác chiến mới cả trong lĩnh vực truyền thống và phi truyền thống, đe dọa hòa bình, ổn định và an ninh toàn cầu. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương có vị trí ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn.
Đối với nước ta, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước được nâng lên, là nền tảng quan trọng để tiếp tục xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn”(2); các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng sự việc, vấn đề nhạy cảm để chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội với nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc…
Bối cảnh, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; đòi hỏi không ngừng gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và những thành tựu đã đạt được, đưa đất nước ta phát triển nhanh và bền vững hơn. Theo đó, cần thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn dân đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc.
Đây là nội dung đặc biệt quan trọng, nhằm thống nhất về nhận thức, hành động, phát huy sức mạnh tổng hợp trong tổ chức xây dựng nền quốc phòng toàn dân; đồng thời, là biện pháp trực tiếp xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Theo đó, các ban, bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh, để toàn dân, trước hết là cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc; nhận thức đúng đắn quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng, chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng, cùng khó khăn, thách thức và yêu cầu mới đặt ra. Về nhận thức, phải thấu suốt quan điểm: xây dựng nền quốc phòng toàn dân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, yêu cầu khách quan, vừa mang tính cấp thiết, vừa cơ bản, lâu dài; là nền tảng, phương thức tối ưu để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đây là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Trong bối cảnh hiện nay, công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục cần được tích cực đổi mới về hình thức, phương pháp và nâng cao chất lượng nội dung. Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giáo dục, phổ biến để các đối tượng liên quan nhận thức sâu sắc, đầy đủ về tình hình thế giới, khu vực, quan điểm, đường lối, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về vấn đề phức tạp, nhạy cảm; về đối tác, đối tượng, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đặc biệt, kịp thời thông tin làm rõ thời cơ, vận hội, thách thức trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; đẩy mạnh quán triệt, tuyên truyền tư tưởng chỉ đạo, định hướng, quyết sách lớn, quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước để khơi dậy niềm tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo xung lực mới, khí thế mới, tinh thần phấn khởi, đoàn kết, đồng thuận xã hội cao…, huy động sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, cuộc vận động toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc, phát huy vai trò, tính tích cực, chủ động của mọi tầng lớp nhân dân, tạo đột phá xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch chống phá đường lối quốc phòng toàn dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; các biểu hiện hình thức, thỏa mãn dừng lại, lơ là chủ quan, mất cảnh giác trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; tư tưởng phiến diện, tuyệt đối hóa kinh tế, xem nhẹ quốc phòng, an ninh, cho rằng quốc phòng, an ninh là công việc, nhiệm vụ của lực lượng chuyên trách.
Hai là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng và xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 14-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030… và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, quân sự, an ninh, và vận dụng vào thực tiễn từng bộ, ngành, địa phương. Trong đó, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm quan điểm, đường lối, mục tiêu, yêu cầu, nội dung, giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo bước đột phá trong xây dựng khu vực phòng thủ, nhất là xây dựng cơ sở chính trị - pháp lý, tiềm lực kinh tế, thế trận quân sự trên địa bàn chiến lược, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, khu kinh tế trọng điểm.
Hiện nay, Đảng, Nhà nước đang quyết liệt chỉ đạo thực hiện đột phá xây dựng, hoàn thiện thể chế, tháo gỡ nút thắt, điểm nghẽn, tạo động lực cho đất nước phát triển trong kỷ nguyên vươn mình với rất nhiều đổi mới. Đây vừa là cơ hội, vừa là yêu cầu, thách thức đặt ra, đòi hỏi tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng. Theo đó, các bộ, ngành, trước hết là Bộ Quốc phòng cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, làm cơ sở tham mưu hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng. Chú trọng thể chế hóa đầy đủ, đồng bộ quan điểm, đường lối của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng, nhất là các cơ chế, chính sách đặc biệt để xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Thực hiện hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại.
Ba là, tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Đây là nội dung rất quan trọng, không chỉ bảo đảm giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, mà còn phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo đảm thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Sắp xếp tinh gọn và bảo đảm cho bộ máy trong hệ thống chính trị hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả là đòi hỏi tất yếu từ thực tiễn của đất nước, cũng là yêu cầu khách quan của xu thế thời đại. Đây là một cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tạo động lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Các ban, bộ, ngành, địa phương cần quán triệt sâu sắc tinh thần đó, triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt chủ trương, định hướng, mục tiêu, yêu cầu sắp xếp của Trung ương, Bộ Chính trị đã đề ra. Trong quá trình thực hiện, cần chú trọng gắn sắp xếp bộ máy với kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng; quan tâm cơ cấu, sắp xếp, kiện toàn tổ chức cơ quan quân sự ở ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương; đặc biệt, cần chủ động làm tốt việc lựa chọn nguồn cán bộ lực lượng vũ trang để tham gia cấp ủy và kiện toàn cấp ủy quân sự các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh.
Cùng với thực hiện hiệu quả cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy, cần tiếp tục củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong đó, trọng tâm là đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” và các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo, chương trình, mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát trên cả nước; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội để “không ai bị bỏ lại phía sau”. Qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng cường mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt quân - dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là trên địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, tạo nền tảng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh.
Bốn là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, đối ngoại gắn với củng cố, tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, chuyển đổi số của nền quốc phòng toàn dân ngay từ trong quy hoạch, kế hoạch phát triển ở các cấp, ngành, lĩnh vực, bảo đảm “mỗi bước tăng trưởng về kinh tế - xã hội là một bước củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh”. Quán triệt sâu sắc, thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Chủ động rà soát, điều chỉnh phân vùng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng, hậu phương chiến lược, quy hoạch thế trận quân sự khu vực phòng thủ..., kiên quyết không phát triển kinh tế bằng mọi giá.
Xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, gắn kết chặt chẽ và trở thành một mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại để bảo vệ đất nước; tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân trong bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả khu kinh tế - quốc phòng phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội trên các hướng chiến lược, địa bàn trọng điểm, biên giới, biển, đảo, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh từ nơi “phên giậu” Tổ quốc. Tiếp tục thực hiện Kết luận số 64-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị, về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Chỉ thị số 07-CT/TW, ngày 3-10-2011, của Ban Bí thư và Nghị định số 21/2019/NĐ-CP, ngày 22-2-2019, của Chính phủ, Về khu vực phòng thủ; chủ động cân đối, phân bổ hợp lý nguồn lực bảo đảm xây dựng tiềm lực, thế trận khu vực phòng thủ, phòng thủ dân sự ngày càng vững chắc, sẵn sàng cho tình huống quốc phòng, an ninh.
Cùng với đó, tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của đất nước và Quân đội trên trường quốc tế, chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Năm là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; trong bất cứ hoàn cảnh nào, Quân đội phải luôn giữ vững định hướng chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17-1-2022, của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 2-4-2022, của Quân ủy Trung ương, Về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; định hướng của Ban Chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
Tiếp tục đột phá đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, diễn tập, giáo dục, đào tạo, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”. Tăng cường thu hút, trọng dụng nhân tài, bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao cho Quân đội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học quân sự, thành tựu của khoa học, công nghệ và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào phát triển lý luận về quốc phòng, nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là ở tầm chiến lược, thường xuyên nêu cao cảnh giác, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu. Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giữ vững an ninh, trật tự trên địa bàn cả nước; thực hiện hiệu quả Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 5-9-2019, của Chính phủ, về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng; kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước có chiến lược, sách lược linh hoạt, đúng đắn, phù hợp, chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, xử lý kịp thời, thắng lợi mọi tình huống quân sự, quốc phòng, không để bị động, bất ngờ. Tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc trên từng địa bàn và cả nước. Tích cực thực hiện công tác dân vận, tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, “thế trận lòng dân” vững chắc, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội, tạo nền tảng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên phát triển mới.
Quán triệt sâu sắc chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục đề cao trách nhiệm, phát huy kết quả, kinh nghiệm đã đạt được, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo nền tảng để xây dựng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc .../.
---------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 322
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 108