19/04/2024 lúc 03:25 (GMT+7)
Breaking News

Thúc đẩy ngoại giao văn hóa trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước

Ngoại giao văn hóa là một trong ba trụ cột của nền ngoại giao toàn diện Việt Nam thời kỳ hội nhập toàn cầu. Với tính mềm dẻo và linh hoạt, ngoại giao văn hóa đã phát huy vai trò tích cực của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia, phục vụ triển khai các mục tiêu đối ngoại của đất nước.
Ảnh minh họa - TL

Vai trò của văn hóa trong thúc đẩy giao lưu và hợp tác quốc tế

Ngoại giao văn hóa là các hoạt động ngoại giao gắn liền với văn hóa, theo đó, văn hóa được sử dụng như một đối tượng và phương tiện nhằm thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại, để đạt được các mục tiêu, lợi ích cơ bản của quốc gia liên quan đến an ninh, phát triển và mở rộng ảnh hưởng, đồng thời xây dựng bản sắc ngoại giao của quốc gia. Ngoại giao văn hóa thường được các quốc gia triển khai theo nhiều hình thức đa dạng, như đẩy mạnh các hoạt động thông tin tuyên truyền đối ngoại; xây dựng các công trình văn hóa, lịch sử ở nước ngoài; các hoạt động giao lưu, trao đổi văn hóa, nghệ thuật, tổ chức các sự kiện văn hóa; tham gia các tổ chức quốc tế về văn hóa; phát huy vai trò của kiều bào trong thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa...

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng diễn ra sâu rộng, văn hóa được nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ đắc lực của “quyền lực mềm”. Hầu hết các nước, không chỉ các nước phát triển, mà cả các nước mới nổi đều có chính sách truyền bá văn hóa ra nước ngoài, qua đó thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại. Qua ngoại giao văn hóa, các quốc gia, nhất là các nước lớn, mở rộng ảnh hưởng của mình đối với thế giới. Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,... là những quốc gia luôn tích cực triển khai mở rộng các “giá trị” và ảnh hưởng của mình thông qua các hoạt động ngoại giao văn hóa. Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, ngoại giao văn hóa phát huy vai trò như một phương thức nhằm lan tỏa giá trị văn hóa, con người, quảng bá hình ảnh, nâng cao vị thế, tiếng nói của đất nước trên trường quốc tế; đồng thời, tạo thêm nhiều động lực, dư địa cho sự phát triển. Trên lĩnh vực kinh tế, ngoại giao văn hóa còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo “sức hút”, thu hút nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh đó, trong quá trình trao đổi, tương tác văn hóa, các quốc gia sẽ có sự trao đổi, giao thoa, lĩnh hội về văn hóa, bồi đắp thêm cho kho tàng văn hóa của mỗi nước; đồng thời, tiếp biến, gìn giữ, phát huy và điều chỉnh các giá trị văn hóa riêng của quốc gia phù hợp với dòng chảy chung của thế giới, thời đại.

Ngoại giao văn hóa là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại. Trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm gìn giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước, ông cha ta đã vận dụng ngoại giao văn hóa một cách sáng tạo, linh hoạt thông qua chiến lược “ngoại giao tâm công”, “ngoại giao hòa hiếu”.

Việt Nam là đất nước có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, có bề dày lịch sử hàng nghìn năm. Nền văn hóa đó có hệ giá trị và bản sắc riêng, tạo nên “sức mạnh mềm” của văn hóa Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh tiến trình hội nhập sâu rộng, toàn diện với thế giới và khu vực, việc nâng cao sự hiểu biết của các đối tác, bạn bè quốc tế về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam cũng như những định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Điều này có tác động tạo nền tảng nhận thức và tình cảm của người dân các nước, qua đó góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác, phát triển, nâng cao vị thế, hình ảnh và sức mạnh tổng hợp quốc gia. Chính vì vậy, ngoại giao văn hóa được xác định là một trụ cột, cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, tạo nên nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại. Trong đó, ngoại giao chính trị có vai trò xác định mục tiêu, định hướng cho công tác ngoại giao văn hóa. Ngoại giao kinh tế là nền tảng vật chất, tạo nguồn lực để thúc đẩy ngoại giao văn hóa. Ở mối quan hệ ngược lại, ngoại giao văn hóa chuyển tải các giá trị văn hóa, bản sắc, hòa hiếu, nhân văn vào ngoại giao chính trị, từ đó góp phần thúc đẩy và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, quảng bá hình ảnh quốc gia, thương hiệu địa phương, phục vụ phát triển đất nước, khơi dậy tình cảm gắn bó, hướng về quê hương đất nước của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Ngoại giao văn hóa phát huy vai trò là một trong ba trụ cột của nền ngoại giao toàn diện Việt Nam

Trong những năm qua, về cơ bản, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế. Các quốc gia ngày càng coi trọng việc gìn giữ và phát huy bản sắc, sức mạnh mềm văn hóa trong quan hệ đối ngoại. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ tạo ra những công cụ đắc lực phục vụ việc truyền tải nhanh, rộng rãi các nội dung về văn hóa. Đây là nền tảng thuận lợi để các quốc gia tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác và thúc đẩy các hoạt động trao đổi, giao lưu văn hóa. Bên cạnh những mặt thuận, sự gia tăng cạnh tranh, xung đột giữa các nước lớn trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa; những mâu thuẫn văn hóa, tôn giáo, sắc tộc vẫn tồn tại và là một phần nguyên nhân sâu xa của những xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ; sự bùng phát của những trào lưu tư tưởng, văn hóa độc hại, những xu hướng chính trị cực đoan, dân tộc hẹp hòi,... đã gây ra nhiều tác động không thuận, có phần làm suy giảm, kìm hãm sự phát triển và ảnh hưởng của các hoạt động hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa.

Đại hội XI của Đảng (tháng 1- 2011) xác định chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”, cụm từ “ngoại giao văn hóa” lần đầu tiên được sử dụng, được đặt vị trí ngang hàng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế. Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 208/2011/QĐ-TTg, ngày 14-2-2011, nhấn mạnh quan điểm: “Ngoại giao văn hóa cùng với ngoại giao kinh tế và ngoại giao chính trị là ba trụ cột của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại Việt Nam. Ba trụ cột này gắn bó, tác động lẫn nhau, góp phần thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Ngoại giao chính trị có vai trò định hướng, ngoại giao kinh tế là nền tảng vật chất và ngoại giao văn hóa là nền tảng tinh thần của hoạt động đối ngoại”. Cùng với đó, các điều ước và thỏa thuận quốc tế về văn hóa được ký kết mới hoặc gia hạn đã tạo cơ sở pháp lý, nâng cao nhận thức về ngoại giao văn hóa và từng bước thể chế hóa vai trò của ngoại giao văn hóa trong các hoạt động đối ngoại của đất nước.

Công tác ngoại giao văn hóa đã được triển khai ngày càng bài bản và chuyên nghiệp, gắn kết và thúc đẩy thực hiện ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia, phục vụ triển khai các mục tiêu đối ngoại của đất nước.

Ngoại giao văn hóa đã trở thành một trong những hoạt động chính trong nội dung các đề án, chương trình, kế hoạch hoạt động đối ngoại lớn của các cấp, các ngành và địa phương. Các hoạt động ngoại giao văn hóa được triển khai trên diện rộng, cả trong và ngoài nước, tại tất cả các châu lục; đa dạng về đối tượng, phong phú về nội dung và hình thức, bài bản trong các chuyến thăm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cũng như việc tiếp đón nguyên thủ nhiều nước thăm Việt Nam; các hội nghị, sự kiện quốc tế lớn do Việt Nam đăng cai tổ chức; các dịp kỷ niệm năm tròn, năm chẵn thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các quốc gia. Qua các hoạt động này, tinh thần, bản sắc văn hóa Việt Nam được khéo léo truyền tải, khẳng định đường lối đối ngoại nhất quán là độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện; đồng thời, làm nổi bật nét đẹp của truyền thống nhân nghĩa, thủy chung, hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị của Việt Nam.

Ngoại giao văn hóa kết hợp chặt chẽ với ngoại giao kinh tế trong các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch nhằm xây dựng hình ảnh Việt Nam là điểm đến hấp dẫn trên thế giới với thể chế chính trị ổn định, con người hòa hiếu, nền văn hóa đặc sắc, đa dạng. Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã công nhận nhiều danh hiệu di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của Việt Nam. Việc ghi danh vào các danh sách di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới và công viên địa chất toàn cầu không chỉ đơn thuần là cam kết quốc gia, mà còn là mô hình khai thác phục vụ nhu cầu phát triển xanh và bền vững. Tính đến tháng 12-2020, Việt Nam đã xây dựng hồ sơ, vận động thành công UNESCO công nhận 44 di sản, danh hiệu các loại. Nhiều địa phương đã thành công trong việc đưa du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên khai thác thế mạnh về danh lam thắng cảnh và các di sản văn hóa, qua đó tô đậm hơn hình ảnh đất nước Việt Nam trên bản đồ di sản, văn hóa thế giới; đồng thời, góp phần quảng bá sự đa dạng về sinh học, văn hóa, truyền thống, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Thông qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, hình ảnh đất nước, con người, nét đẹp của văn hóa Việt Nam được quảng bá và được biết tới ở nhiều quốc gia, nhiều khu vực trên thế giới. Các hoạt động quảng bá được tích cực triển khai tại những sự kiện đối ngoại, lễ hội, hội chợ, festival văn hóa, du lịch, chương trình tuần/ngày Việt Nam ở nước ngoài tại các nước là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam, các đề án vinh danh các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, nhất là Đề án “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài” đã được triển khai có hiệu quả tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới... Việc gắn kết các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, du lịch và công tác cộng đồng được đặc biệt chú trọng, đã góp phần giới thiệu với bạn bè quốc tế về hình ảnh đất nước Việt Nam có lịch sử hào hùng, một đất nước tươi đẹp và giàu tiềm năng phát triển; con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, thân thiện, mến khách; nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các hoạt động này cũng góp phần truyền tải tới bạn bè quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thông điệp về các chủ trương, định hướng phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Trong khuôn khổ các diễn đàn đa phương, ngoại giao văn hóa đã góp phần tích cực đưa đất nước từng bước hội nhập sâu rộng về văn hóa, nâng cao năng lực chủ động, tham gia xây dựng “luật chơi” tại các diễn đàn, có nhiều đóng góp tích cực cho các mục tiêu hòa bình, an ninh, phát triển và tăng cường vị thế của đất nước. Tại các phiên họp của UNESCO, Việt Nam đã tích cực chia sẻ kinh nghiệm, thể hiện là thành viên có trách nhiệm của tổ chức này trong nhiều năm qua. Mới đây, hai bên cũng đã ký kết Bản ghi nhớ hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và UNESCO giai đoạn 2021 - 2025 nhân chuyến thăm UNESCO của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính. Thúc đẩy các lợi ích của Việt Nam tại diễn đàn UNESCO, ngoại giao văn hóa đã góp phần tiếp cận có hiệu quả các nguồn lực, vận dụng các ý tưởng, kinh nghiệm của tổ chức này để phục vụ lợi ích, nhu cầu phát triển đất nước trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và khoa học. Việt Nam đã trở thành thành viên của hầu hết các định chế, diễn đàn đa phương then chốt trên mọi tầng nấc tại các diễn đàn, tổ chức khu vực, liên khu vực và quốc tế về văn hóa, như: Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Hợp tác Đông Á - Mỹ La-tinh (FEALAC), Tổ chức Pháp ngữ, các tổ chức phi chính phủ (NGOs) về văn hóa... Tại khu vực, qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, Việt Nam đã phát huy vai trò tích cực trong hợp tác, xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN và hợp tác văn hóa ASEAN, góp phần tăng cường hiểu biết của người dân Việt Nam về ASEAN; đồng thời, quảng bá hình ảnh của Việt Nam tới các nước trong và ngoài khu vực, xây dựng bản sắc chung của ASEAN.

Các hoạt động ngoại giao văn hóa đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng được triển khai tích cực, hình thức ngày càng đa dạng, góp phần thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26-3-2004, của Bộ Chính trị khóa IX, “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới”; Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 19-5-2015, của Bộ Chính trị “Về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, “về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới”; Kết luận số 12-KL/TW, ngày 12-8-2021, của Bộ Chính trị, “Về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới”. Điển hình như, chương trình Ngày Việt Nam ở nước ngoài được tổ chức tại nhiều nước, như Thụy Sĩ, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Ấn Độ, Nga,... đã tạo được hiệu ứng tích cực, góp phần tạo đà phát triển quan hệ của Việt Nam với nhiều đối tác. Đây là chương trình tổng hợp các hoạt động về chính trị, kinh tế, văn hóa được thực hiện tại một số quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định, trọng tâm là giới thiệu các cơ hội hợp tác đầu tư, thương mại, du lịch, dịch vụ, giới thiệu về văn hóa Việt Nam, giao lưu nhân dân,... Các hoạt động văn hóa phong phú hướng tới cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã thúc đẩy gắn kết cộng đồng người Việt Nam trên thế giới hướng về Tổ quốc, có những đóng góp thiết thực trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, có tác động sâu sắc trong việc khơi gợi lòng tự hào dân tộc, tình cảm gắn bó với quê hương, thúc đẩy việc lan tỏa các giá trị Việt Nam ra thế giới, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Ngoại giao văn hóa cũng đóng góp tích cực trong việc hỗ trợ các ngành, các địa phương thực hiện thành công các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, từng bước xây dựng thương hiệu địa phương. Ngoại giao văn hóa đã từng bước được đưa vào nội dung của các chiến lược, đề án, quy hoạch phát triển văn hóa, du lịch, kinh tế - xã hội của địa phương. Nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa định kỳ và thường niên đã dần trở thành “thương hiệu” của địa phương, tạo sức hút đối với ngoại giao đoàn, với bạn bè và khách quốc tế, qua đó, đưa hình ảnh các địa phương của Việt Nam ngày càng trở nên gần gũi, thân thiện, cởi mở, góp phần thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương nói riêng và cả nước nói chung.

Tựu trung, trong những năm qua, nhất là trong 10 năm triển khai Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2020, việc triển khai ngoại giao văn hóa đã được gắn kết chặt chẽ, ngày càng bài bản, có hiệu quả đối với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, tạo hiệu ứng quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả triển khai công tác đối ngoại nói chung. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, việc phát huy vai trò của ngoại giao văn hóa, truyền tải và gắn kết, tối đa hóa các giá trị của văn hóa vào các hoạt động ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị vẫn còn không ít hạn chế, bất cập. Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của ngoại giao văn hóa vẫn chưa thực sự đồng đều. Nội dung, hình thức, chất lượng và hiệu quả của các hoạt động ngoại giao văn hóa cũng còn tồn tại một số bất cập. Nguồn nhân lực của ngoại giao văn hóa chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng; ngân sách dành cho ngoại giao văn hóa còn hạn chế...  

Để tiếp tục góp phần nâng tầm và lan tỏa các giá trị Việt Nam đến cộng đồng quốc tế

Tình hình thế giới, khu vực được dự báo sẽ tiếp tục có những vận động và biến chuyển không ngừng, tính phức tạp, khó lường sẽ ngày càng gia tăng. Những biến động về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại sẽ tạo ra những tác động mạnh mẽ, nhiều chiều, nhiều mức độ đến từng quốc gia, trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Nhu cầu giao lưu văn hóa, hợp tác nhân dân giữa các quốc gia ngày càng được chú trọng. Với tính chất là yếu tố quan trọng làm nên sức mạnh mềm của quốc gia, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được thúc đẩy, các nước đều có xu hướng nhìn nhận văn hóa là một thành tố quan trọng trong quan hệ quốc tế, thúc đẩy lòng tin, quảng bá các sản phẩm văn hóa nhằm lan tỏa bản sắc dân tộc, nâng cao hình ảnh và vị thế đất nước, đồng thời bảo tồn và tiếp thu, làm giàu kho tàng văn hóa của quốc gia. Chính văn hóa là yếu tố dẫn đường, là điều kiện cần thiết và không thể thiếu cho việc thực hiện các mục tiêu ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị, tăng cường sự hiểu biết, củng cố và làm sâu sắc hơn quan hệ giữa các quốc gia, đóng góp trực tiếp cho hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển.

Là một đất nước có bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng cùng nền văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc, Việt Nam có tiềm năng to lớn để xây dựng và triển khai chính sách ngoại giao văn hóa xứng tầm với vị thế của đất nước, cũng như đóng góp quan trọng, hiệu quả vào quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trong những năm tới. Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2030 đã đặt mục tiêu “sử dụng công cụ văn hóa trong ngoại giao nhằm đưa quan hệ Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động nguồn lực bên ngoài, biến điều kiện thuận lợi, vị thế đất nước thành nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời dùng các biện pháp ngoại giao để tôn vinh các giá trị, vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế đất nước”(1). Mục tiêu này một lần nữa nhấn mạnh vai trò của ngoại giao văn hóa trong nền ngoại giao Việt Nam toàn diện và hiện đại. Ngoại giao văn hóa sẽ cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế phục vụ các mục tiêu, lợi ích của quốc gia, dân tộc, cụ thể là mục tiêu về hòa bình, an ninh, phát triển và vị thế, ảnh hưởng; gắn kết chặt chẽ văn hóa với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế và những định hướng chính sách đối ngoại đến năm 2030 của Đảng, của đất nước. Ngoại giao văn hóa của Việt Nam trong thời gian tới sẽ được triển khai với năm nhiệm vụ cụ thể: 1- Thúc đẩy và làm sâu sắc hơn quan hệ, lòng tin giữa Việt Nam với các quốc gia, khu vực, các tổ chức quốc tế; 2- Hội nhập chủ động, sâu rộng trong các lĩnh vực về văn hóa tại các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế; 3- Quảng bá và lan tỏa hình ảnh về đất nước, con người, văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế; 4- Vận động, bảo vệ và phát huy các di sản Việt Nam được quốc tế công nhận; 5- Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong một thế giới toàn cầu hóa và liên kết quốc tế mạnh mẽ như hiện nay, văn hóa ngày càng được các quốc gia nhìn nhận là nhân tố đóng vai trò quan trọng, là nguồn lực nội sinh và là động lực phát triển, bảo vệ quốc gia trong tình hình mới. Theo đó, cần phát huy và chuyển tải tối đa những giá trị mang ý nghĩa sâu sắc, nhân văn, nhân bản của nét đẹp, truyền thống văn hóa dân tộc và thời đại vào các hoạt động đối ngoại, để văn hóa thực sự có những đóng góp toàn diện, hiệu quả, thực chất hơn đối với việc triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới.

Để thực hiện được mục tiêu đó, ngoại giao văn hóa cần bám sát nhiệm vụ phục vụ và bảo đảm tối đa mục tiêu bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc, cụ thể là hòa bình, an ninh, ảnh hưởng và nâng cao vị thế đất nước. Quá trình triển khai cần gắn kết chặt chẽ với các định hướng chính sách đối ngoại lớn của Đảng, của đất nước, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Trung ương, các bộ, ngành, địa phương. Bên cạnh đó, cần xác định hoạt động văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ gói gọn trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc thù, mà còn bao gồm các lĩnh vực, như khoa học, giáo dục, giao lưu nhân dân... và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Việc gắn kết công tác ngoại giao văn hóa với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và công tác người Việt Nam ở nước ngoài cần tiếp tục được thúc đẩy. Những thành tố này luôn có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Nếu ngoại giao chính trị có vai trò định hướng, ngoại giao kinh tế tạo nền tảng vật chất thì ngoại giao văn hóa tạo nền tảng tinh thần cho các hoạt động đối ngoại, đưa bản sắc, nghệ thuật ngoại giao mềm mỏng, linh hoạt, yêu chuộng hòa bình, hòa hiếu, giàu tính nhân văn cho ngoại giao chính trị, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, xây dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia, thương hiệu địa phương,... hỗ trợ ngoại giao kinh tế.

Việc triển khai toàn diện, có hiệu quả công tác ngoại giao văn hóa cần được nhận thức sâu sắc là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể, địa phương, doanh nghiệp, người dân và người Việt Nam ở nước ngoài dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tạo môi trường thuận lợi về cơ chế, chính sách để triển khai công tác ngoại giao văn hóa.

Tiếp tục kế thừa, tiếp thu, vận dụng sáng tạo để hoàn thiện việc định hình nội hàm, thông điệp chủ đạo, bản sắc của ngoại giao văn hóa Việt Nam; tăng tính gắn kết giữa ngoại giao văn hóa và ngoại giao công chúng. Bên cạnh đó, việc triển khai công tác ngoại giao văn hóa trong bối cảnh hiện nay cần coi trọng bám sát xu hướng và sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là sự tiến bộ về công nghệ số, kỹ thuật số nhằm thích ứng và đưa ngoại giao văn hóa Việt Nam hội nhập nhanh, sâu rộng vào khu vực và thế giới.

Cùng với tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2030 và năm 2045, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra chủ trương: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”(2). Đây là một chủ trương lớn, phản ánh sự trưởng thành của nền ngoại giao Việt Nam, đồng thời cũng là yêu cầu vừa cấp bách, vừa mang tính chiến lược, lâu dài đối với công tác đối ngoại nói chung, trong đó có ngoại giao văn hóa. Bám sát các mục tiêu và nhiệm vụ đã đặt ra, đồng thời linh hoạt, sáng tạo trong ý tưởng và biện pháp triển khai, ngoại giao văn hóa sẽ tiếp tục phát huy vai trò là một trụ cột đối ngoại quan trọng và có những đóng góp lớn, góp phần nâng tầm và lan tỏa các giá trị Việt Nam đến cộng đồng quốc tế./.

Trần Thị Kim Vinh 

Ban Đối ngoại Trung ương

----------------

(1) Quyết định số 2013/QĐ-TTg, ngày 30-11-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2030”
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội , 2021, t. I, tr. 162