09/11/2025 lúc 11:51 (GMT+7)
Breaking News

Phát huy trí tuệ Việt trong thời đại hội nhập và kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trước yêu cầu cấp bách của công cuộc hội nhập toàn diện và nhiệm vụ chấn hưng quốc gia trong kỷ nguyên tri thức, đội ngũ trí thức – đặc biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn – đang nổi lên như một lực lượng trung tâm trong việc kiến tạo hệ giá trị quốc gia, định hình bản sắc văn hóa – chính trị, đồng thời cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho các chiến lược phát triển bền vững. Vai trò hạt nhân của trí tuệ Việt không chỉ thể hiện ở khả năng phản biện và dự báo chính sách, mà còn ở việc chuyển hóa tri thức học thuật thành động lực đổi mới sáng tạo, củng cố năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Khai thác và phát huy hiệu quả nguồn lực này chính là điều kiện tiên quyết để nâng cao vị thế Việt Nam trong trật tự thế giới đang vận động nhanh chóng và phức tạp.

Ảnh minh họa - TL

Thế kỷ XXI được xem là kỷ nguyên của tri thức, đổi mới sáng tạo và hội nhập toàn cầu, nơi mà năng lực tư duy, sáng tạo và khả năng thích ứng nhanh với biến động trở thành yếu tố then chốt quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong dòng chảy mạnh mẽ ấy, Việt Nam đang từng bước chuyển mình, đặt mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Đây không đơn thuần là một cột mốc định lượng về kinh tế, mà còn là tầm nhìn chiến lược định hình nền tảng xã hội, văn hóa và con người. Trong bối cảnh đó, việc phát huy sức mạnh trí tuệ Việt – đặc biệt từ đội ngũ trí thức, lực lượng giữ vai trò kiến tạo tri thức, thúc đẩy tiến bộ và truyền cảm hứng phát triển cho toàn xã hội – trở thành yêu cầu cấp thiết. Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn ngày càng thể hiện vị thế không thể thay thế: vừa truyền bá tri thức, xây dựng nền tảng tư tưởng – văn hóa, vừa trực tiếp tham gia hoạch định chính sách, phản biện xã hội và dẫn dắt tư duy phát triển theo hướng bền vững, nhân văn và bao trùm.

Theo đó, để đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn thực sự phát huy vai trò như một “nguồn lực đặc biệt”, cần có sự nhìn nhận đầy đủ về vị trí, vai trò của họ trong công cuộc phát triển đất nước. Đồng thời, phải chỉ ra những tồn tại đang cản trở họ phát huy năng lực, cũng như xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm khơi dậy, tập hợp và phát huy mạnh mẽ hơn nữa trí tuệ của lực lượng sức mạnh trí tuệ Việt, hiểu theo nghĩa rộng, là tổng hòa của năng lực tư duy độc lập, khả năng sáng tạo, trình độ tri thức chuyên môn và bản lĩnh văn hóa – tư tưởng của người Việt Nam. Đây không chỉ là kết quả của quá trình giáo dục, rèn luyện và kế thừa di sản văn hóa dân tộc, mà còn là biểu hiện sinh động của nội lực phát triển – đặc biệt ở tầng lớp trí thức. Từ lâu, trí tuệ Việt đã được hun đúc qua nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành một thành tố quan trọng làm nên bản sắc dân tộc và sức bật của đất nước trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.

Toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, trí tuệ dân tộc càng chứng tỏ vai trò không thể thay thế. Trí tuệ bao gồm năng lực khoa học, đổi mới sáng tạo và tư duy phản biện đã trở thành nguồn lực then chốt, không thua kém bất kỳ nguồn lực truyền thống nào như tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông hay vốn đầu tư. Đặc biệt, khi kinh tế tri thức và kinh tế số trở thành xu hướng tất yếu, trí tuệ lại càng là “chìa khóa vàng” để mở cánh cửa phát triển và khẳng định vị thế quốc gia. Thực tiễn đã cho thấy, tỷ lệ đóng góp của khoa học – công nghệ và tri thức vào tăng trưởng GDP toàn cầu không ngừng gia tăng. Tại Việt Nam kinh tế số năm 2023 đã chiếm 16,5% GDP. Đồng thời, trên mặt trận quốc tế, giải thưởng VinFuture một trong những giải thưởng khoa học toàn cầu do người Việt khởi xướng đã tôn vinh nhiều nhà khoa học Việt Nam có đóng góp lớn cho nhân loại, thể hiện khát vọng hội nhập của trí tuệ Việt và khả năng đóng góp vào những vấn đề trọng đại của thế giới.

Tại hành trình hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững, trí tuệ Việt Nam đang ngày càng khẳng định vai trò trung tâm. Đặc biệt, đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) giữ vị trí không thể thay thế trong việc kiến tạo nền tảng tư tưởng, góp phần hoạch định chính sách, bảo vệ bản sắc và nâng tầm giá trị văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Việc xây dựng chính sách và nền tảng tư tưởng, đội ngũ trí thức KHXH&NV có đóng góp sâu sắc vào việc hình thành các định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước. Ở vai trò phản biện xã hội, lực lượng này còn trực tiếp tham gia vào việc tư vấn, hoạch định chính sách phát triển, củng cố nền tảng lý luận và bảo vệ chủ quyền tư tưởng – văn hóa của quốc gia.

Điển hình như, đề án “Phát triển hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới” được triển khai từ năm 2022, với sự tham gia sâu rộng của các nhà khoa học KHXH&NV là một đề án học thuật, một chương trình hành động nhằm tái định vị các giá trị cốt lõi, phục vụ công cuộc chấn hưng văn hóa và xây dựng con người Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đó, các nhà khoa học trong lĩnh vực kỹ thuật, y học, công nghệ thông tin… đang góp phần làm chủ công nghệ lõi, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số quốc gia. Năm 2023, Việt Nam có 5 nhà khoa học lọt vào danh sách 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới theo công bố của Đại học Stanford (Hoa Kỳ), cho thấy sự hiện diện ngày càng rõ nét của trí tuệ Việt trên bản đồ tri thức toàn cầu. Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ của các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo cũng đang được dẫn dắt bởi lớp trí thức trẻ, năng động và giàu khát vọng cống hiến. Không thể không nhắc tới vai trò của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và bảo tồn bản sắc dân tộc. Đây là những người giữ vai trò cầu nối giữa truyền thống và hiện đại, giữa tri thức nhân loại và giá trị dân tộc. Các dự án số hóa di sản văn hóa do Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam chủ trì là một trong nhiều ví dụ cho thấy nỗ lực bảo tồn di sản bằng công nghệ hiện đại điều không thể thiếu trong quá trình hội nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng.

Trong hơn ba thập niên đổi mới, đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và trí thức KHXH&NV nói riêng đã và đang là lực lượng nòng cốt, đồng hành cùng Đảng và nhân dân vượt qua nhiều thách thức, góp phần làm nên những thành tựu mang tầm vóc lịch sử. Đội ngũ trí thức tiếp tục khẳng định vị thế như những “chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng”, dùng “vũ khí” lý luận khoa học và đạo lý dân tộc để giữ vững trận địa tư tưởng, lan tỏa giá trị chân – thiện – mỹ trong xã hội.

Mặc dù trí tuệ Việt Nam đã và đang khẳng định vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước, song thực tiễn cho thấy vẫn còn nhiều tồn tại đang cản trở dòng chảy tri thức, hạn chế khả năng cống hiến, sáng tạo và hội nhập quốc tế của lực lượng này. Những thách thức ấy không chỉ mang tính kỹ thuật, mà còn phản ánh những vấn đề sâu xa về thể chế, môi trường học thuật, cơ chế tài chính và cả cách thức kết nối giữa nghiên cứu với thực tiễn. Các chính sách khuyến khích nghiên cứu hiện nay chưa đủ mạnh để tạo động lực thực sự cho đội ngũ trí thức, nhất là các nhà khoa học trẻ. Thủ tục hành chính rườm rà, cơ chế xét duyệt đề tài phức tạp, thiếu tự do học thuật và còn nặng về hình thức khiến nhiều nhà nghiên cứu rơi vào tình trạng “làm khoa học trong khuôn khổ hành chính”, thay vì được tự do sáng tạo. Nhiều nhà khoa học buộc phải làm thêm công việc ngoài chuyên môn để đảm bảo cuộc sống, làm giảm thời gian và chất lượng nghiên cứu. Đáng lo ngại hơn, theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ năm 2022, có tới khoảng 70.000 nhà khoa học Việt Nam đang làm việc và định cư ở nước ngoài phản ánh rõ tình trạng “chảy máu chất xám” và sự hụt hơi trong nỗ lực giữ chân tài năng.

Nghiên cứu trong lĩnh vực KHXH&NV đòi hỏi đầu tư bài bản vào khảo sát thực địa, tổ chức hội thảo, xây dựng cơ sở dữ liệu những điều không thể thực hiện nếu thiếu nguồn lực tài chính ổn định và dài hạn. Tuy nhiên, ngân sách cấp cho lĩnh vực này còn thấp và không ổn định, trong khi cơ chế tiếp cận các nguồn tài trợ quốc tế lại thiếu linh hoạt, thiếu hỗ trợ kỹ thuật và thông tin đầy đủ cho các nhà nghiên cứu. Cùng với đó, cơ sở hạ tầng nghiên cứu còn lạc hậu, từ thư viện, kho lưu trữ cho đến hệ thống dữ liệu và thiết bị phục vụ nghiên cứu, khiến việc tiếp cận tri thức mới, học thuật quốc tế và triển khai các đề tài có chiều sâu trở nên vô cùng khó khăn. Nhiều công trình khoa học có giá trị lý luận và tiềm năng ứng dụng cao, nhưng lại khó đi vào đời sống vì thiếu cầu nối trung gian, thiếu cơ chế chuyển giao phù hợp. Trong khi đó, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Việt Nam vẫn còn thiếu các thiết chế như trung tâm kết nối đại học với doanh nghiệp và địa phương, trung tâm chuyển giao tri thức hay các mô hình “vườn ươm” cho các ý tưởng xã hội, chính sách. Không ít nhà nghiên cứu vẫn ưu tiên công bố quốc tế nhưng lại chưa chú trọng đúng mức đến việc chuyển hóa các kết quả nghiên cứu thành giải pháp cụ thể phục vụ người dân, chính quyền và doanh nghiệp. Điều này vô hình trung tạo ra sự tách biệt giữa giới học thuật và các vấn đề thực tiễn của đất nước.

Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, việc nhận diện và tháo gỡ các tồn tại nói trên là yêu cầu cấp thiết. Cần một cách tiếp cận mới không dựa vào ngân sách nhà nước, mà huy động hiệu quả hơn sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức xã hội và các đối tác quốc tế. Cần một hệ sinh thái tri thức thực sự mở là nơi các nhà khoa học được tôn trọng, được đầu tư đúng mức, và có cơ hội biến tri thức thành giá trị phục vụ cộng đồng. Chỉ khi đó, trí tuệ Việt mới thực sự trở thành lực đẩy chiến lược, góp phần hiện thực hóa khát vọng hùng cường của dân tộc trong thế kỷ XXI. Để trí tuệ Việt thực sự trở thành động lực nội sinh cho công cuộc chấn hưng đất nước và hội nhập quốc tế, cần một hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ, mang tính chiến lược lâu dài. Trước hết, cần hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển trí thức theo hướng mở và đồng bộ. Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ yêu cầu “xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới”. Điều này đòi hỏi phải có một chiến lược quốc gia dài hạn về phát triển đội ngũ trí thức, trong đó KHXH&NV và khoa học tự nhiên – kỹ thuật không tách rời mà phải cộng hưởng. Chính sách phát triển trí thức cần vượt khỏi tư duy ngắn hạn, dàn trải, để hướng đến kiến tạo một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn diện, nơi nhà nước, viện nghiên cứu, đại học và doanh nghiệp hợp tác chặt chẽ trên nền tảng tin cậy và lợi ích chung. Đồng thời, cần cải cách cơ chế tài chính, từ thủ tục phân bổ ngân sách đến mô hình tài trợ linh hoạt, tạo điều kiện cho các ý tưởng sáng tạo được nuôi dưỡng và phát triển. Bên cạnh đó, việc nâng cao vị thế xã hội và tạo động lực nội tại cho đội ngũ trí thức cần được xem là nhiệm vụ cấp thiết. Trí thức phải được tôn trọng như một nguồn lực đặc biệt trong giảng dạy hay nghiên cứu, trong cả hoạch định chính sách, phản biện xã hội, truyền bá văn hóa và nuôi dưỡng hệ giá trị quốc gia. Điều này đòi hỏi một cơ chế thực sự bảo đảm quyền tự do học thuật, minh bạch trong đánh giá và đề cao đạo đức nghề nghiệp. Trao quyền đi kèm với trách nhiệm là cách tốt nhất để khơi dậy tinh thần phụng sự trong giới học thuật, từ đó hình thành lớp trí thức có năng lực chuyên môn vững vàng, vừa có bản lĩnh chính trị và tinh thần dân tộc sâu sắc.

Để biên giới không còn là rào cản của tri thức, việc thiết lập một mạng lưới liên kết chặt chẽ giữa chuyên gia người Việt ở nước ngoài và trong nước là bước đi mang tính chiến lược nhằm quy tụ chất xám, thúc đẩy chuyển giao tri thức và khẳng định tầm ảnh hưởng của trí tuệ Việt trên bản đồ học thuật toàn cầu. Chương trình “Kết nối trí thức Việt toàn cầu” do Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài triển khai từ năm 2021 là một khởi đầu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, để chương trình thực sự phát huy hiệu quả, cần mở rộng quy mô, đa dạng hóa phương thức kết nối, đồng thời thiết lập cơ chế hợp tác thực chất và bền vững.

Song song với đó, đầu tư có chiều sâu vào hạ tầng nghiên cứu – bao gồm thư viện số, trung tâm dữ liệu, phòng thí nghiệm và không gian học thuật hiện đại – là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực sáng tạo tri thức. Trong đó, lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn cần được ưu tiên hỗ trợ để triển khai các chương trình nghiên cứu liên ngành, tích hợp tri thức và hướng tới các giải pháp có tính hệ thống, phục vụ trực tiếp cho quá trình quản trị phát triển, chuyển đổi số, bảo tồn văn hóa, an sinh xã hội và giáo dục công dân. Việc tích hợp KHXH&NV ngay từ giai đoạn hoạch định chính sách sẽ góp phần đảm bảo chiều sâu nhân văn cho các quyết sách phát triển, hạn chế rủi ro của sự phát triển thiên lệch và thiếu bền vững.

Bên cạnh đó, cần đổi mới cách thức đánh giá hiệu quả nghiên cứu khoa học theo hướng phản ánh đúng đóng góp thực tiễn và tác động xã hội, thay vì chỉ tập trung vào số lượng công bố học thuật. Một hệ tiêu chí đánh giá mới – nhấn mạnh vai trò tham vấn chính sách, ảnh hưởng tới cộng đồng và đóng góp vào nền tảng tư tưởng – văn hóa quốc gia – sẽ tạo ra lực đẩy cho chuyển đổi định hướng nghiên cứu, khuyến khích đội ngũ trí thức gắn bó mật thiết hơn với đời sống xã hội.

Việc hình thành các không gian học thuật thực sự tự chủ, dân chủ và có trách nhiệm – nơi trí tuệ được giải phóng, đạo đức nghề nghiệp được đề cao – sẽ là nền tảng vững chắc để phát triển một nền khoa học mang đậm bản sắc Việt. Trong không gian đó, trí thức không chỉ là người truyền bá tri thức, mà còn là chủ thể kiến tạo giá trị, định hướng nhận thức và góp phần nâng cao nội lực quốc gia bằng chính phẩm chất, năng lực và tinh thần dấn thân của mình.

Để phát huy nguồn lực đặc biệt này đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược dài hạn, những chính sách thực chất và tiến bộ, cùng một môi trường học thuật tự do, dân chủ, nhân văn. Nhưng trên hết, đó còn là sự ghi nhận và tôn trọng đúng mức đối với vai trò của trí thức những người gắn bó lặng thầm với đời sống tinh thần, chính trị và văn hóa của đất nước. Khơi dậy – kết nối – lan tỏa trí tuệ Việt là thông điệp trở thành một hành động quốc gia, một cam kết phát triển mang tính thời đại. Chỉ khi trí thức được phát huy đúng tầm, trí tuệ Việt mới thực sự trở thành lực đẩy lịch sử, đưa dân tộc vươn lên mạnh mẽ, tự tin bước vào kỷ nguyên mới với bản lĩnh, bản sắc và niềm kiêu hãnh Việt Nam.

ThS Phương Huyền Châu