Nhìn lại 03 thập kỷ đã qua, chúng ta có quyền tự hào về thương mại và thị trường đã góp phần tạo nên bức tranh kinh tế với nhiều gam mầu tươi sáng trên nhiều khía cạnh và bình diện khác nhau. Một thị trường thống nhất và ổn định trong toàn quốc đã hình thành. Thương mại sôi động, về cơ bản đã đáp ứng được những nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Đội ngũ thương nhân ngày càng đông đảo và đa dạng. Mạng lưới kinh doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục “phủ sóng” trên cả ba địa bàn: thành thị, nông thôn và miền núi, góp phần gắn chặt sản xuất với tiêu thụ, hàng hoá với thị trường, thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ và ký hiệp định thương mại tự do (FTA), thoả thuận đối xử tối huệ quốc với gần 200 nước và vùng lãnh thổ . Với việc ký kết và phê chuẩn các hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA, chúng ta tiến thêm một bước theo hướng tăng tốc mở cửa với thế giới, thiết lập một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa, tạo dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh, để phát triển cùng thời đại. Khung khổ pháp lý của các FTA thế hệ mới sẽ là khuôn mẫu cho việc vận hành nền kinh tế trong thế kỷ XXI, với những quy phạm, quy định cao hơn, toàn diện hơn, thậm chí có cả những quy định "ngoài kinh tế" hay "kinh tế chính trị".
Tuy nhiên có thể nói chúng ta hội nhập với tư cách là một nước nhỏ trên mọi góc độ về giai đoạn phát triển. Kinh tế Việt Nam hôm nay cơ bản vẫn là kinh tế gia công lắp ráp,Việt Nam vẫn nằm ở dưới chuỗi giá trị. Trong khi các ngành sản xuất dựa trên FDI rất thành công, hoạt động của các doanh nghiệp trong nước lại tụt hậu. Chỉ gần 30% kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam được tạo ra trong nước.
Khảo sát về Môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới cho biết, chi phí kinh doanh ở Việt Nam về cơ bản là cao hơn so với các nước trong khu vực. Chi phí nộp thuế ở Việt Nam lên tới hơn 39% lợi nhuận, cao nhất so với ASEAN 4; chi phí tuân thủ chứng từ XK cũng ở mức cao nhất, gấp gần 4 lần so với Singapore và hơn 3 lần so với Philippines. Đó thực sự là những vấn đề rất đáng quan ngại bởi nó sẽ làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
Thực tiễn gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và thực thi các FTA trong những năm vừa qua cho thấy: khả năng thích ứng với kinh tế thị trường, khả năng chủ động khai thác cơ hội là rất yếu. Kinh tế WTO là kinh tế thị trường tự do. Vì vậy nó chỉ có thể vận hành và phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Việc mở cửa thị trường thông qua các cam kết giảm thuế sẽ chẳng có một chút giá trị nào nếu như các hàng rào phi thuế quan vẫn được áp dụng. Chính vì vậy việc loại bỏ hàng rào phi thuế quan luôn luôn là yêu cầu đồng hành với cắt giảm thuế quan trong mọi hình thức hội nhập kinh tế quốc tế. Như vậy Việt Nam sẽ không được phép duy trì các biện pháp phi thuế mà không có lý do chính đáng theo các quy định của WTO, EAEU-FTA,CPTPP, EVFTA. Như vậy, nhiều doanh nghiệp đang được bảo hộ sẽ phải đối mặt với không ít thách thức do nguy cơ gia tăng cạnh tranh của hàng nhập khẩu.Tham gia các FTA thế hệ mới là một thách thức lớn vì Việt Nam là nước có nền kinh tế và hệ thống pháp luật "khập khiễng" nhất trong số các nước ký kết. Trong khi đó, vai trò của các tổ chức quốc tế đa phương có xu hướng suy giảm và đang phải cải cách, cơ cấu lại. Xu hướng, định hướng cải cách của các tổ chức đó ở mức độ nhất định phụ thuộc vào tương quan mối quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc.
Các dòng chảy thương mại và đầu tư trong khuôn khổ các FTA song phương và đa phương theo nhóm các quốc gia có thể nổi lên, làm suy giảm thể chế thương mại, đầu tư đa phương toàn cầu. Các FTA song phương hay đa phương không chỉ là gói gọn trong lĩnh vực thương mại, đầu tư,.. mà còn điều chỉnh cả các mối quan hệ, các vấn đề trong biên giới quốc gia.
Với sự phức tạp của cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung , sự "bức bách" của việc thực hiện các cam kết của EAEU, CPTPP, EVFTA, UKFTA và sắp tới là RCEP… buộc các doanh nhân Việt Nam phải có đối sách khi hội nhập. Sự ra đời và đi vào hoạt động của các khu thương mại tự do, khu công nghiệp kỹ thuật cao, sự tác động của mậu dịch biên giới… cũng làm cho cường độ cạnh tranh tăng lên gấp bội so với trước là tín hiệu đáng mừng trong quá trình "mở cửa", nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết cả ở tầm chính sách vĩ mô lẫn chiến lược sản xuất, kinh doanh và tác nghiệp của mỗi doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, do nhiều nguyên nhân khác nhau, chúng ta sẽ gặp khó khăn lớn khi phải cạnh tranh với các nước trong khu vực, trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Hàng Việt Nam cũng sẽ vấp phải sức "công phá" mạnh mẽ của hàng ngoại "đổ bộ" vào. Các rào cản kỹ thuật được xem như "binh pháp" trong thương mại sẽ tái xuất hiện. Các thị trường truyền thống sẽ trở nên "vời xa" do yêu cầu cao về chất lượng, mẫu mã. Đó là hàng loạt những khó khăn không dễ gì khắc phục trong một sớm một chiều.
Nhìn lại những năm vừa qua, bên cạnh những mặt đạt được, các chính sách, cơ chế quản lý đã ban hành cho lĩnh vực thương mại đến nay cho thấy còn tồn tại khá nhiều bất cập. Thể hiện rõ nét trên các mặt sau:
- Thiếu tầm nhìn xa trong điều chỉnh chính sách và các quy định pháp luật và các quy định khi xuất hiện những thay đổi.
- Xuất hiện tình trạng “tiến thoái lưỡng nan” trong hoàn thiện thể chế do những bất cập về “khoảng cách” thể chế giữa trong nước và ngoài nước. Nhiều văn bản pháp quy không phù hợp với quản lý theo cơ chế thị trường.
- Phương thức vận hành thể chế vẫn còn nhiều bất cập, bộc lộ sơ hở và hạn chế. Chưa thiết lập được một cơ chế đồng bộ nhằm phát huy hiệu quả của từng công cụ và hệ thống các công cụ quản lý.
- Kỹ thuật xây dựng chính sách thô sơ (nhất là chính sách phi thuế quan), còn áp đặt ý muốn, chủ quan khi soạn thảo chính sách, cơ chế nên thường xuyên phải điều chỉnh, thay đổi.
- Mặc dù hệ thống thuế của Việt Nam đã được cải thiện khá nhiều trong những năm qua, tuy nhiên nếu xét trên quan điểm của một hệ thống thuế quan hiện đại, cần thiết cho một nền kinh tế mở và đáp ứng những đòi hỏi của các tổ chức quốc tế trong quá trình hội nhập, tiêu biểu là CPTPP, EVFTA thì hệ thống thuế của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm cần chỉnh sửa.
Kinh nghiệm 35 năm Đổi mới cho thấy những bước phát triển ấn tượng của Việt Nam đều gắn với những đổi mới có tính quyết định về thể chế và chính sách kinh tế. Giáo sư Kenichi Ohno - Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản, người có hơn 10 năm tư vấn chính sách kinh tế cho Việt Nam nhấn mạnh: Chất lượng thể chế luôn là điểm đột phá trong phát triển, nhưng đáng tiếc đây lại chính là điểm yếu của Việt Nam.
Ngày nay, mọi quốc gia và dân tộc đang đứng ở bước ngoặt phát triển có tính thời đại, chứng kiến cuộc cách mạng làm lay động khối óc mọi con người trong tư duy và nhận thức về sự phát triển. Chúng ta sẽ phải lựa chọn hướng đi trong một bối cảnh đang thay đổi, nơi mà những chuyển đổi về mô hình thương mại và đầu tư toàn cầu dường như ít thuận lợi hơn cho sự tăng trưởng dựa vào XK và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vừa là cơ hội đang được định hình, vừa tạo ra những rủi ro mới. Việt Nam phải tận dụng được các cơ hội phát triển trong xu thế vận động chung của kinh tế thế giới, nhất là những cơ hội từ cuộc cách mạng 4.0 để phát triển.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đi đôi với việc tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường đặt thương mại và thị trường vào những “mắc khâu” hết sức quan trọng, phải khắc phục và vượt qua hàng loạt những “rào cản” đã,đang và sẽ xuất nhiện trong những năm tới. Bám sát và đón đầu xu hướng phải được coi là tư tưởng chủ đạo, là quan điểm xuyên suốt và “Cover” toàn bộ quá trình xây dựng chiến lược phát triển thương mại và thị trường. Việc hoàn thiện và đổi mới thể chế thương mại phải đặt trong bối cảnh vừa phải thúc đẩy tăng trưởng bền vững, giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái, vừa phải cạnh tranh trên thị trường quốc tế lại vừa phải chủ động cạnh tranh ở ngay thị trường trong nước.
Trong điều kiện nền kinh tế mở với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp (hãng) phân phối hàng hoá sản xuất ở nước ngoài trên thị trường nội địa sẽ kéo theo những tác động của thị trường ngoài nước đến thị trường nước ta. Cường độ của những tác động đó tỷ lệ với tỷ trọng của các doanh nghiệp nước ngoài trong nền kinh tế nói chung và hoạt động thương mại nói riêng. Trong xu thế này, thị trường các hàng hoá cơ bản có ảnh hưởng lớn đến thị trường hàng hoá khác như xăng, dầu, vốn, các sản phẩm đầu vào trung gian cho các ngành sản xuất trong nước sẽ "nhạy cảm" hơn đối với những tác động của thị trường ngoài nước.
Cùng với sự phát triển của khách quan các xu hướng thị trường,bối cảnh chính trị trên thế giới và đường lối phát triển kinh tế của Đảng cũng sẽ tác động tới quản lý Nhà nước về thương mại ở nước ta trên 5 khía cạnh sau:
- Thứ nhất: Chính sách và cơ chế quản lý phải được đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính sách xuất nhập khẩu phải tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho đẩy mạnh XK và quản lý tốt nhập khẩu (NK), khuyến khích được việc NK công nghệ nguồn, công nghệ hiện đại và công nghệ cao nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chính sách thương mại đối với thị trường trong nước phải góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Thứ hai: Chính sách và cơ chế quản lý thương mại phải thể hiện được một cách nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh, cùng phát triển lâu dài, hợp và và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Thứ ba: Quản lý Nhà nước về thương mại ở nước ta phải góp phần thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ.
- Thứ tư: Quản lý Nhà nước về thương mại nước ta phải dựa trên nền tảng của sự tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế như đổi mới kế hoạch hoá, cải cách hệ thống thuế và các cải cách trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ.
- Thứ năm: phải xây dựng cơ chế lựa chọn và kết nối hiệu quả để liên kết các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa.
Tham gia các FTA thế hệ mới,Việt Nam sẽ được vào chơi trên một sân chơi đẳng cấp, sân chơi của các đại gia, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để kết nối sâu hơn với kinh tế toàn cầu hoá và có cơ hội phát triển nhanh hơn. Không có hệ thống pháp luật, không có môi trường kinh doanh phù hợp thì không thể khai thác được lợi thế. Việc chúng ta cần làm ngay lúc này là xoá bỏ tư duy kiểu cũ và nhập cuộc với tư duy kinh tế toàn cầu hoá, kinh tế thị trường.
Việt Nam phải hiện đại hoá, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với những yêu cầu mới này. Hoàn thiện thể chế thương mại là qua trình điều chỉnh các quy định, chính sách và luật pháp trong nước để gia tăng mức độ phù hợp với thể chế thương mại toàn cầu. Theo đó những vấn đề cần làm:
- Đối với thị trường trong nước.
- Trong 4 phân ngành (nghề) của dịch vụ phân phối, dịch vụ bán lẻ là phân ngành phát triển mạnh mẽ nhất. Xu hướng này vẫn đang tiếp tục. Trong một tương lai gần, phải “đón đầu” xu hướng phát triển của dịch vụ bán buôn. Khi ngày càng có nhiều thương hiệu Việt, cần có chính sách khuyến khích “bên nhượng” và hỗ trợ “bên nhận” để phân ngành này “nở rộ” - hướng tới hàng triệu doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh trên khắp mọi miền đất nước.
- Chấm dứt mọi giải pháp bao cấp qua cấp vốn, tín dụng, trợ giá cho một số đối tượng, làm méo mó các quan hệ thương mại.
- Tạo lập một sân chơi cho tất cả các doanh nghiệp, cùng hoạt động trên cơ sở một hệ thống chính sách và luật pháp thống nhất với giá, phí đồng nhất.
- Cuộc cải cách hành chính phải tập trung giải quyết việc giảm thiểu thủ tục hành chính, loại bỏ giấy phép không cần thiết, phục vụ doanh nghiệp và tạo điều kiện để mọi hoạt động kinh tế diễn ra trôi chảy. Trên cơ sở đó, lựa chọn một số hướng đột phá về đơn giản hoá thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh, thu thuế, hải quan, kiểm tra, thanh tra hoạt động doanh nghiệp.
Vấn đề lớn nhất và gai góc nhất trong đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại là thực hiện vai trò thống nhất quản lý Nhà nước của Bộ Công Thương đối với toàn bộ lĩnh vực thương mại trên thị trường xã hội. Thực hiện được vai trò này mới có thể từng bước thực hiện sự phân biệt chức năng quản lý Nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh, khắc phục được tình trạng Bộ nào, Ngành nào cũng làm chức năng quản lý thương mại dịch vụ, điều hoà lưu thông hàng hoá song thực tế vẫn xuất hiện những chồng chéo, thiếu phối hợp, sai lệch trong vận dụng cơ chế, chính sách cũng như xử lý các hậu quả của nó .
Đổi mới quản lý theo hướng thống nhất quản lý Nhà nước của Bộ Công Thương đối với hoạt động thương mại đòi hỏi phải tổ chức và hoàn thiện bộ máy quản lý, hình thành hệ thống quản lý Nhà nước về thương mại thống nhất từ trung ương đến quận, huyện, làm rõ vai trò, nhiệm vụ các Sở, định hình cơ quan quản lý hành chính - kinh tế Nhà nước trên địa bàn quận, huyện, xác định giới hạn trách nhiệm và mối quan hệ giữa các tổ chức quản lý như Bộ, UBND các Tỉnh, Thành phố, Sở, Quận, Huyện... pháp quy hoá các mối quan hệ đó để thực hiện.
Trước sự chuyển biến sâu sắc về tình hình kinh tế, thương mại của đất nước, đặc biệt là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm qua cần mở rộng phạm vi của Luật Thương mại, bao gồm các quan hệ trong hoạt động trao đổi hàng hoá hữu hình và thương mại dịch vụ. Hoàn thiện các qui định về giải quyết tranh chấp thương mại để đáp ứng được quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp khi phát sinh tranh chấp và phù hợp với các thông lệ và các chế định quốc tế mà Việt Nam tham gia.
- Đối với hội nhập quốc tế
Cần hướng vào việc đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong mọi hoạt động kinh tế đối ngoại, để thực hiện các cam kết quốc tế,theo đó cần tập trung xử lý các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Đối chiếu pháp luật hiện hành với các cam kết quốc tế để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống luật pháp.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, kiện toàn Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế để thực sự đảm đương được vai trò tư lệnh chiến trường.
Việc xây dựng một cơ chế giám sát thương mại và thực thi bảo hộ kịp thời là một yêu cầu khách quan trong giai đoạn hiện nay. Kinh nghiệm của các nước đều cho thấy sự cần thiết của cơ chế bảo hộ “tạm thời”. WTO xây dựng khuôn khổ chung nhất về các nguyên tắc xử sự của một quốc gia liên quan cơ chế đó. Tuỳ thuộc vào điều kiện và nhu cầu của mỗi quốc gia, thành viên đó sẽ vận dụng và xây dựng các cơ chế cụ thể theo cách riêng của mình.
Kiểm soát và hạn chế NK có ý nghĩa quan trọng để cải thiện cán cân thương mại. Tuy nhiên nếu thực thi một cách quyết liệt sẽ tác động rất lớn đến quá trình mở cửa và hội nhập. Việc hoàn thiện và đổi mới chính sách NK để khuyến khích NK cạnh tranh nhằm đổi mới công nghệ, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng XK và hàng sản xuất thay thế NK có thể xem là hướng đi - định hướng hợp quy luật trong bối cảnh hiện nay. Theo đó cần tiếp tục:
- Mở rộng và đa dạng hoá thị trường NK, hạn chế sự phụ thuộc quá mức vào một số thị trường. Hết sức chú trọng các thị trường EU, Hoa Kỳ , Nhật Bản- những thị trường có công nghệ cao, công nghệ nguồn.
- Có chính sách cởi mở để khuyến khích, thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm từng bước giảm thấp việc NK.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật. Mở rộng hợp tác khu vực để hài hoà hoá tiêu chuẩn. Tăng cường kiểm tra tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng NK nhằm hạn chế và tiến tới loại bỏ việc NK công nghệ cũ, công nghệ lạc hậu.
Khảo sát của Tổ chức Action Aid cho thấy hiện đang có khoảng cách nhất định giữa chính sách và thực thi chính sách thuế giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc xóa bớt khoảng cách khác biệt với các quốc gia khác là việc cần được tính đến một cách nghiêm túc. Theo đó phương hướng điều chỉnh và hoàn thiện thể chế thương mại của Việt Nam trong từng lĩnh vực cụ thể như sau:
- Tiếp tục ban hành, bổ sung, hoàn thiện và cơ cấu lại các sắc thuế nội địa, để đảm bảo phần nào bù đắp được sự giảm thu trong ngân sách Nhà nước khi chúng ta thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu. Việt Nam cũng cần tiếp tục hoàn thiện Danh mục biểu thuế NK theo hướng phù hợp hoàn toàn với Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu của Tổ chức Hải quan thế giới (HS).
- Đối với các chính sách trong lĩnh vực phi thuế quan:
Gắn với tình hình thực tiễn, kết hợp với các cam kết hệ thống phi thuế quan của Việt Nam có thể được xây dựng thành 3 nhóm lớn sau:
Loại 1: Những biện pháp phi thuế quan phổ thông trong khuôn khổ WTO.
Loại 2: Những biện pháp kỹ thuật
Loại 3: Những chính sách vĩ mô khác có tác động điều tiến gián tiếp xuất nhập khẩu: cơ chế tỷ giá hối đoái, thanh toán, lãi suất, tín dụng ngân hàng, chính sách đầu tư...
- Hàng rào kỹ thuật thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ.
Khẩn trương rà soát điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới các tiêu chuẩn về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật, yêu cầu về nhãn mác, bao bì sản phẩm, tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, các biện pháp kiểm dịch động thực vật phù hợp với các yêu cầu của WTO, FTA và thông lệ quốc tế.
- Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại.
Trước mắt tiếp tục duy trì yêu cầu nội địa hoá như là một trong các điều kiện của đầu tư nhưng giảm bớt số ngành, số sản phẩm thuộc đối tượng của chính sách này, chỉ tập trung vào một số ít những sản phẩm quan trọng, thật cần thiết để kích thích sự phát triển của ngành có liên quan, tạo ra những sản phẩm có thương hiệu Việt Nam. Tuy nhiên về lâu dài, chúng ta cũng phải đưa ra lộ trình bãi bỏ những quy định về nội địa hoá đối với tất cả các sản phẩm.
Tham gia vào sân chơi khu vực và quốc tế, có thể nói Việt Nam đang có thời cơ và vận hội để rút ngắn con đường phát triển của mình mà lịch sử thế giới phải trải qua hàng trăm năm mới có. Nếu chúng ta quyết tâm thay đổi thì thương mại và thị trường sẽ có sự đột phá và khởi sắc. Câu hỏi này nằm về phía Chính phủ, mỗi bộ, ngành, từng địa phương và mỗi người dân trong sự quyết tâm để tạo nên một cuộc đổi mới, phát huy những “nỗ lực” của thị trường - bước ngoặt mà chúng ta cần tiến đến trong những năm cuối của thập kỷ này !
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT