VNHN - Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Tuyên cáo thành lập Nội các Thống nhất Quốc gia gồm 12 Bộ. Ngày 30/8/1945, tại Huế, đại diện Chính phủ lâm thời tuyên bố chấp nhận sự thoái vị của Bảo Đại; bộ máy nhà nước và pháp luật thực dân phong kiến bị xóa bỏ. Ngày 2/9/1945, Chính phủ lâm thời làm lễ ra mắt quốc dân tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và ngày hôm sau, 3/9/1945, Chính phủ lâm thời họp phiên đầu tiên dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thảo luận và đề ra các nhiệm vụ cấp bách về quốc kế dân sinh.
Về pháp luật, với quan điểm lịch sử cụ thể, Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 đã cho phép tạm thời thi hành một số luật lệ của chế độ cũ cho đến khi ban hành luật pháp mới, với điều kiện những điều khoản trong các luật lệ cũ không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà. Theo tinh thần đó, một số quy định pháp luật dân sự, trong đó có các quy định về hòa giải tiếp tục được vận dụng. Với tầm quan trọng của hòa giải trong đời sống xã hội, ngay từ những năm đầu của chính quyền nhân dân, chế định hòa giải đã được Nhà nước ta hết sức chú trọng. Sắc lệnh số 13-SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Về tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán đã thiết lập hệ thống tòa án gồm Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm; đồng thời quy định Ban Tư pháp xã có quyền hòa giải tất cả các sự việc dân sự và thương sự. Nếu hòa giải thành, Ban Tư pháp xã có thể lập biên bản hòa giải có các ủy viên, đương sự ký. Tiếp đó, Sắc lệnh số 51-SL, ngày 17/4/1946 về ấn định thẩm quyền các Tòa án xác định rõ vai trò của của tòa án trong hòa giải. Khi nhận được đơn kiện về dân sự thay thương sự, Thẩm phán sơ cấp phải đòi hai bên đến để thử hòa giải. Biên bản hòa giải có hiệu lực tư chứng thư. Những việc kiện dân sự và thương sự thuộc về thẩm quyền của Tòa án đệ nhị cấp đều phải giao trước về cho ông Thẩm phán sơ cấp hòa giải.
Năm 1950, lần cải cách tư pháp đầu tiên được tiến hành. Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách tư pháp và luật tố tụng đã đổi tên Toà án sơ cấp thành Toà án nhân dân huyện, Toà án đệ nhị cấp thành Toà án nhân dân tỉnh, Hội đồng phúc án thành Tòa phúc thẩm; Phụ thẩm nhân dân đổi thành Hội thẩm nhân dân. Nhiệm vụ chính của cơ quan tư pháp lúc này không những chỉ xét xử mà còn phải hòa giải những vụ xích mích ở địa phương để giảm bớt kiện tụng. Việc thành lập hội đồng hòa giải ở mỗi huyện là nhằm giao cho nhân dân trực tiếp phụ trách việc hòa giải tất cả những việc hộ (dân sự) kể cả việc ly dị mà từ trước tới nay chỉ do Chánh án Tòa án mới có thẩm quyền. Biên bản hòa giải thành có hiệu lực thi hành. Khi các đương sự đã thỏa thuận trước hội đồng hòa giải thì việc hòa giải phải được đem thi hành ngay. Về thủ tục, Toà án nhân dân huyện họp thành Hội đồng hoà giải để thử hoà giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả các việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự không có quyền điều đình. Biên bản hoà giải thành là một công chứng thư, có thể đem thi hành ngay. Tuy nhiên, cho đến khi biên bản hoà giải được thi hành xong, nếu Biện lý (công tố) thấy biên bản đó phạm đến trật tự chung thì có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ những điều mà hai bên đã thoả thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày phòng biện lý (viện công tố) nhận được biên bản hoà giải thành. Nếu hoà giải bất thành mà Toà án có thẩm quyền chưa quyết định gì, thì Hội dồng hoà giải có thể tạm thời cho thi hành những biện pháp khẩn cấp tạm thời (buộc cấp dưỡng nuôi con, cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp...).
Những người có lợi ích liên quan đến vụ việc tranh chấp, nếu thấy mình bị thiệt hại do biên bản hoà giải thành, có quyền đệ đơn xin yêu cầu toà án nhân dân huyện ra mệnh lệnh hoãn việc chấp hành biên bản hoà giải. Người bị thiệt hại phải đệ đơn trong hạn 15 ngày tròn sau khi biết biên bản hoà thành có điều khoản thiệt hại đến quyền lợi của mình hoặc sau khi biết việc chấp hành biên bản.
Về hòa giải hôn nhân và gia đình, Thông tư số 1057-TCTP ngày 24/8/1956 của Bộ Tư pháp về tư pháp xã và quyền công nhận thuận tình ly hôn quy định cụ thể từng trường hợp phải hòa giải. Tiếp đó, Thông tư số 69-TC ngày 31/12/1958 của Tòa án tối cao quy định Ủy ban hành chính xã ( nay là Ủy ban nhân dân) hòa giải các tranh chấp; nếu hòa giải không thành thì sau đó một tháng nếu xét thấy hai vợ chồng vẫn giữ ý kiến xin ly hôn, thì Ủy ban hành chính xã lập biên bản ghi lời khai của hai vợ chồng xin thuận tình ly hôn, rồi chuyển biên bản với hồ sơ (đơn của đương sự, báo cáo của xóm, đoàn thể nếu có...) và ý kiến của Ủy ban hành chính xã lên Tòa án nhân dân công nhận cho chính thức ly hôn. Ngay cả các vụ việc vi cảnh hay hình sự nhỏ, Nhà nước cũng khuyến khích hòa giải. Thông tư số 556/TTg ngày 24/12/1958 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sự lãnh đạo đối với việc bắt giữ, truy tố, xét xử quy định: “Đối với xích mích, xung đột, thưa kiện giữa nhân dân với nhau thì phải kiên trì dàn xếp ổn thỏa”. Đó là một chủ trương đúng, hợp lòng dân trong lúc nhân dân ta bắt đầu chuẩn bị bước vào giai đoạn xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định hòa giải các vụ ly hôn như sau: “Khi một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hòa giải, hòa giải không được, Tòa án sẽ xét xử…”.
Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960 quy định: “Tòa án nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ hòa giải những tranh chấp về dân sự… và hướng dẫn công tác hòa giải ở xã và khu phố”. Để triển khai nhiệm vụ này, Tòa án nhân dân tối cao đã ra Thông tư số 1080-TATC ngày 25/9/1961 quy định:“Trong khi thực hiện thẩm quyền mới các Tòa án nhân dân thuộc tỉnh, thị xã, huyện, khu phố (tương đương cấp quận hiện nay) phải luôn chú ý đầy đủ đến việc hòa giải, giáo dục nhân dân và xây dựng tư pháp xã. Cần đề phòng khuynh hướng đưa ra xét xử nhiều việc mà thiếu kiên trì hòa giải, giáo dục các đương sự và nhân dân”.
Trong lĩnh vực lao động, Nghị định số 87-NĐLB ngày 16/8/1955 của liên Bộ Lao động - Tư pháp cũng đã có những quy định cụ thể về việc hòa giải xích mích giữa chủ và người làm công để tránh lãn công, đình công gây thiệt hại cho sản xuất của công ty.
Những kết quả hòa giải trong những năm đầu của chính quyền nhân dân đã góp phần ổn định trật tự xã hội, duy trì đoàn kết trong nhân dân, được tiếp tục phát triển trong thời kỳ miền Bắc xây dựng CHXH và trong thời kỳ đổi mới đất nước. Thể chế hòa giải đã có bước ngoặt khi Pháp lệnh hòa giải cơ sở năm 1998, sau đó là Luật hòa giải cơ sở năm 2013 được ban hành, tạo hành lang pháp lý rộng mở cần thiết cho hòa giải, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Xét xử đúng là tốt. Nhưng nếu không phải xét xử thì tốt hơn”.
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn
Nguyên Ủy viên Thường trực - Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương