Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) tiếp tục bổ sung, phát triển: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đây là bước đột phá nhưng hết sức khoa học về tư duy lý luận của Đảng ta.
Bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam
Có thể khẳng định: Việc từ bỏ chế độ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp để chính thức đi vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự lựa chọn khách quan, sáng tạo, độc lập và phù hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới hiện đại. Chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhằm xây dựng một đất nước tất cả đều vì con người và do con người. Một nền kinh tế như vậy, một mặt, tôn trọng và tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường; nghĩa là sản xuất và kinh doanh phải thu được lợi nhuận, phải chấp nhận cạnh tranh theo pháp luật để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển; mặt khác, quan trọng hơn là nền kinh tế ấy phải tạo được một lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trong đó con người vừa phải là động lực, vừa phải là mục tiêu của sự phát triển.
Trong tác phẩm: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển” của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã viết: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là "cái phổ biến", còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "cái đặc thù" của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam”… “Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác - Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam”.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương và nhất quán vận hành nền kinh tế thị trường chủ yếu bằng cơ chế thị trường và thông qua cơ chế thị trường nhưng coi trọng sự quản lý và sự điều tiết của Nhà nước, thực hiện phân phối công bằng, nhưng không cào bằng thành quả thu được cho mọi thành viên để không ai, kể cả những người yếu thế, bị bỏ lại phía sau. Đó chính là định hướng cực kỳ quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển nền kinh tế tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam
Nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến lên CNXH ở VN; cũng có thể hiểu không có một nền kinh tế nào khác ngoài kinh tế thị trường có thể đảm nhiệm vai trò là cơ sở kinh tế để xây dựng CNXH ở nước ta. Đây là sự khẳng định thực tế Việt Nam về nguyên lý kinh điển của Chủ nghĩa Mác với vai trò của kinh tế thị trường trong tiến trình phát triển của loài người.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt. Đó được xem là những “đài chỉ huy”, là huyết mạch chính của nền kinh tế. Đây là điều kiện nguyên tắc bảo đảm tính định hướng XHCN. Nó thể hiện sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN so với các mô hình kinh tế thị trường khác.
Hiện có 5 đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam:
Một là, mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam: Mục đích của kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân; chính là nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam lấy lợi ích và phúc lợi toàn dân làm mục tiêu. Phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH nâng cao đời sống nhân dân…
Hai là, vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tồn tại nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Hiện nước ta có 4 thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế độc lập với nhau, bình đẳng với nhau trước pháp luật. Các thành phần kinh tế khác nhau dựa trên các quan hệ sở hữu khác nhau và thường đại diện cho những giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Do vậy, trong quá trình cùng phát triển của các thành phần kinh tế, Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo là để giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế đất nước.
Ba là, hoạt động quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN:
Nhà nước pháp quyền XHCN đại diện cho đa số nhân dân trong xã hội và phải bảo vệ quyền lợi và lợi ích của nhân dân. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, bằng chiến lược, kế hoạch, bằng hính sách, đồng thời sử dụng kinh tế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và khắc phục những tiêu cực, hạn chế do cơ chế thị trường đem đến, bảo vệ lợi ích của nhân dân và xã hội.
Bốn là, kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân khối:
Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng hóp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế phân phối này tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời hạn chế bất công trong xã hội.
Năm là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với đảm bảo công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: Là nền kinh tế luôn gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội… Đây cũng là một trong những mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, thể hiện sự khác biệt với nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa về việc phân cực giàu nghèo, phân hóa xã hội.
Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN
Trong hơn 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế thị trường (KTTT) và định hướng XHCN, nhằm đảm bảo cho công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta luôn tiến lên phía trước. Theo đó, tư duy về con đường xây dựng CNXH ở nước ta đã thay đổi một cách căn bản, từ chỗ bài bác, đi đến thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quan hệ thị trường trong công cuộc xây dựng CNXH. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) của Đảng đã xác định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” là một trong bảy phương hướng cơ bản trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định rõ: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Đến Đại hội IX, Đảng ta coi KTTT định hướng XHCN “là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH”4 và yêu cầu phải xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN. Trong những đại hội tiếp theo, việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN luôn được coi trọng và được Đại hội XI xem là một đột phá chiến lược để phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của KTTT trong công cuộc xây dựng CNXH, Đảng ta cũng thấy rõ những khuyết tật của nó không phù hợp với bản chất của CNXH, nên luôn đề cao vai trò quản lý của Nhà nước XHCN, nhằm đảm bảo cho nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường, nhưng các mục tiêu của CNXH cũng phải từng bước được hiện thực hóa…
Nhờ thực hiện những chủ trương, chính sách đúng đắn đó, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, với tốc độ tăng trưởng GDP khá cao trong bối cảnh kinh tế thế giới lâm vào 2 cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt với mức thu nhập thực tế; công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được những thành tựu ngoạn mục, với tỷ lệ hộ nghèo giảm mỗi năm 2-3%, được Liên hợp quốc xếp đứng đầu các nước thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; dân chủ trong xã hội ngày càng tốt hơn; lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng lên. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững; nước ta được xem là một trong những nơi an toàn nhất thế giới, là điểm hấp dẫn đầu tư và du lịch của người nước ngoài. Vị thế (cả về kinh tế và chính trị) của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng thêm; v.v.
Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN những năm qua vẫn còn một số bất cập; thể hiện rõ nhất ở chỗ: hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa thật đồng bộ và thống nhất; vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước chưa được giải quyết tốt, còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế (nhất là trong tiếp cận các nguồn tín dụng); tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, trốn lậu thuế, gian lận thương mại còn nhiều; khoảng cách giàu – nghèo ngày càng doãng ra, hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai và chưa đồng bộ, v.v. Những vấn đề đó đã góp phần làm cho “Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH chậm; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hóa xã hội tăng lên”6. Vì vậy, giải quyết mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN vẫn phải là mối quan tâm thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, như Đại hội XI đã khẳng định.
Để tiếp tục giải quyết tốt mối quan hệ này, trước hết, phải nhận thức đúng thực chất mô hình KTTT định hướng XHCN ở nước ta là “một hình thái KTTT vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”. Tiếp theo phải kiên trì thực hiện nhất quán chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Bên cạnh đó, phải thường xuyên quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường. Mặt khác, chúng ta phải luôn chăm lo xây dựng bản chất giai cấp của Nhà nước, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là Nhà nước pháp quyền XHCN “của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cùng với các vấn đề trên, từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; cụ thể như sau:
1. Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
2. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
3. Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã (HTX) là nòng cốt. Các HTX dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp các HTX đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển HTX.
4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
5. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
6. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
7. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội./.
ThS. Phạm Đình Cương