VNHNO - WB đánh giá, triển vọng trong trung hạn của Việt Nam tiếp tục được cải thiện. Tăng trưởng GDP dự báo sẽ đạt khoảng 6,8% trong năm 2018 (so với 6,5% trong dự báo hồi tháng 4/2018), dù vậy, cần đề phòng rủi ro về biến động tài chính toàn cầu cũng như vấn đề nợ công trong khi dư địa tài khóa hạn chế và tăng trưởng năng suất chững lại.
Các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới nhận định về tình hình kinh tế của Việt Nam
Kinh tế vĩ mô đạt kết quả khả quan
Ngân hàng thế giới (WB) vừa công bố báo cáo cập nhật kinh tế Đông Á - Thái Bình Dương. Trong đó, WB đánh giá nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt kết quả tốt nhờ kinh tế toàn cầu khôi phục bền vững và những cải cách trong nước đang được thực hiện. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam ước tăng 7,1% (so cùng kỳ năm trước) trong nửa đầu năm 2018.
Tăng trưởng GDP diễn ra đồng loạt, đứng đầu là ngành chế tạo chế biến với tăng vững chắc 13% nhờ sức cầu mạnh bên ngoài. Sản lượng ngành nông nghiệp cũng vươn lên đạt mức tăng trưởng 3,9% chủ yếu do kết quả tốt ở lĩnh vực thủy sản định hướng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, ngành dịch vụ vẫn duy trì tăng trưởng ổn định ở mức 6,9% nhờ lĩnh vực bán lẻ tăng trưởng mạnh trên cơ sở tiêu dùng tư nhân mạnh mẽ và ngành dịch vụ du lịch đạt kỷ lục. GDP tăng trưởng cao đi kèm với lạm phát ở mức vừa phải và vị thế kinh tế đối ngoại được củng cố.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) toàn phần tăng bình quân 3,5%/ năm (thấp hơn chỉ tiêu 4% cho năm nay của Chính phủ), trong khi tỷ lệ lạm phát lõi xoay quanh 1,4% trong bảy tháng đầu năm 2018. Nền kinh tế đạt kết quả vững chắc nhờ cam kết của Chính phủ về ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng dựa vào khu vực tư nhân.
Các chính sách kinh tế của Chính phủ tiếp tục tập trung cải cách theo định hướng thị trường nhằm giảm dần vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh và tiếp tục mở cửa kinh tế để thu hút đầu tư tư nhân.
Bên cạnh đó, nền kinh tế năng động của Việt Nam tiếp tục tạo thêm thành quả về phúc lợi chung và giảm nghèo. Tăng việc làm hưởng lương kết hợp với tăng lương thực tế được cho là động lực giảm nghèo, đóng góp đến một nửa kết quả giảm nghèo kể từ năm 2014.
Các bằng chứng cho thấy những cải thiện về tạo việc làm và tăng thu nhập tiếp tục diễn ra. Trên 900.000 việc làm hưởng lương được tạo ra trong năm 2017, mức lương thực tế tăng 4,3% do nhu cầu lao động vẫn đang phát sinh mạnh ở các ngành chế tạo, chế biến, xây dựng và dịch vụ.
Trên cơ sở đó, tỷ lệ nghèo được dự báo tiếp tục giảm mạnh. Số liệu ước tính về tình trạng nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế cho quốc gia thu nhập trung bình ở ngưỡng thấp (3,2 USD ngang giá sức mua năm 2011) dự kiến sẽ giảm từ khoảng 8,2% năm 2016 xuống còn 6,4% năm 2018.
Xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục đạt kết quả ấn tượng nhờ nhu cầu bên ngoài mạnh hơn và năng lực sản xuất được mở rộng, chủ yếu do đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong các lĩnh vực chế tạo, chế biến định hướng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng 16% từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2018.
Đồng thời, tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu chững lại còn 11,1%, dẫn đến thặng dư cán cân thương mại và tài khoản vãng lai. Nhờ cán cân thanh toán thuận lợi, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tăng dự trữ ngoại hối lên mức kỷ lục – ước khoảng 64 tỷ USD vào đầu tháng 6/2018.
Trong điều kiện áp lực lạm phát vừa phải, chính sách tiền tệ và tín dụng tiếp tục được cân đối giữa mục tiêu tăng trưởng và ổn định vĩ mô. Tăng trưởng tín dụng vẫn cao ở mức khoảng 17% (so cùng kỳ năm trước) do nhu cầu gia tăng về vốn cho các hoạt động kinh tế và tiêu dùng.
Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng cao có thể dẫn đến những bất cân đối về phân bổ tín dụng và đầu tư rủi ro dẫn đến suy giảm chất lượng tài sản.
WB đánh giá, quá trình tái cơ cấu ngân sách vẫn đang được tiến hành, nhưng chất lượng và tính bền vững vẫn cần cải thiện. Sau khi nợ công được ổn định vào năm 2017, ưu tiên vẫn là duy trì kỷ cương ngân sách.
Điều chỉnh về chi ngân sách dẫn đến tổng bội chi ngân sách giảm còn khoảng 4,6% GDP năm 2017. Kết quả đó kết hợp với giảm bảo lãnh chính phủ và thu về cổ phần hóa ở mức cao dẫn đến tỷ lệ nợ công trên GDP giảm còn khoảng 58,9% trong năm 2017 so với 60%. Hơn nữa, Chính phủ đang tiếp tục kiềm chế tăng chi để bù lại kết quả thu tương đối yếu.
Triển vọng và rủi ro phải đối mặt
Bà Victoria Kwakwa, Phó Chủ tịch WB phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương phân tích, chủ nghĩa bảo hộ và biến động trên thị trường tài chính có thể gây tổn hại đến viễn cảnh tăng trưởng trong trung hạn, trong đó người nghèo và những người dễ tổn thương nhất phải chịu những hệ quả bất lợi nhất.
Đây là lúc các nhà hoạch định chính sách trong khu vực phải cảnh giác và chủ động tăng cường khả năng chống chịu và đương đầu của quốc gia.
Riêng với Việt Nam, WB đánh giá, triển vọng trong trung hạn của Việt Nam tiếp tục được cải thiện. Tăng trưởng GDP dự báo sẽ đạt khoảng 6,8% trong năm 2018 (so với 6,5% trong dự báo hồi tháng 4/2018), trước khi chững lại ở mức 6,6% năm 2019 và 6,5% năm 2020 do sức cầu trên toàn cầu dự kiến chững lại theo chu kỳ.
Nền kinh tế có khởi sắc hơn. Dự kiến lạm phát vẫn xoay quanh chỉ tiêu 4% của Chính phủ. Chính sách tiền tệ được thắt chặt phần nào nhằm đối phó với áp lực giá phát sinh do áp lực về giá đầu vào trong nước và tăng giá thương phẩm trên toàn cầu.
Về kinh tế đối ngoại, cân đối tài khoản vãng lai ước tính sẽ tiếp tục thặng dư trong ngắn hạn, nhưng mức độ thặng dư sẽ giảm dần từ năm 2019 do thâm hụt tăng lên ở tài khoản thu nhập và dịch vụ. Tình hình ngân sách được củng cố dự kiến sẽ kiềm chế được nợ công trong kỳ dự báo.
Các nhà hoạch định chính sách cần tận dụng môi trường kinh tế thuận lợi để đẩy mạnh những chính sách làm tăng khả năng chống chịu về kinh tế vĩ mô và tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững trong tương lai.
Chính sách tiền tệ cần điều chỉnh lượng thanh khoản trong khu vực ngân hàng sao cho lãi suất liên ngân hàng gắn với lãi suất chính sách và đưa tăng trưởng tín dụng về mức phù hợp với các yếu tố căn bản.
Nỗ lực trên có thể được bổ trợ bằng các biện pháp cẩn trọng vĩ mô nhằm ngăn ngừa tình trạng dành tín dụng quá mức cho các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản hoặc tiêu dùng cá nhân.
Hơn nữa, các bước nhằm tăng cường giám sát khu vực ngân hàng, xử lý nợ xấu, củng cố tỷ lệ an toàn vốn sẽ không chỉ giảm rủi ro về ổn định tài chính mà còn đem lại những cải thiện về trung gian tài chính, góp phần nâng cao tăng trưởng trong trung hạn. Tỷ giá hối đoái nếu được quản lý chủ động và linh hoạt hơn có thể giúp giảm thiểu rủi ro do những biến động kinh tế từ bên ngoài.
Về chính sách tài khóa, mục tiêu tiếp tục giảm bội chi đòi hỏi phải có một chiến lược tổng thể nhằm nâng cao hiệu suất chi tiêu và duy trì bền vững tiềm năng thu trong trung hạn.
Bên cạnh chính sách kinh tế vĩ mô cẩn trọng là nhu cầu tiếp tục chú trọng cải cách cơ cấu sâu rộng, bao gồm cả những cải cách pháp quy nhằm xóa bỏ rào cản và giảm chi phí hoạt động của khu vực tư nhân, đầu tư cho nguồn nhân lực và hạ tầng chất lượng cao, tiếp tục cải cách nhằm nâng cao năng suất trong khu vực DNNN...
"Trong bối cảnh rủi ro tăng lên, các nền kinh tế đang phát triển ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương cần vận dụng đầy đủ các chính sách tái cơ cấu, cẩn trọng kinh tế vĩ mô sẵn có để bình ổn các cú sốc bên ngoài và nâng cao tốc độ tăng trưởng tiềm năng", Ông Sudhir Shetty, Chuyên gia kinh tế trưởng của WB, phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương khuyến cáo.