13/03/2025 lúc 20:18 (GMT+7)
Breaking News

Vị thế nông nghiệp Việt Nam sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới

Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhờ chính sách đột phá và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nông nghiệp Việt Nam với xuất phát điểm từ nền nông nghiệp lạc hậu, chịu nhiều ảnh hưởng của chiến tranh đã có sự chuyển biến mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu, thể hiện vai trò vô cùng to lớn đối với phát triển kinh tế và ổn định xã hội.

Từ một quốc gia sản xuất không đủ nhu cầu nội địa, Việt Nam đã trở thành quốc gia sản xuất và xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, ngành nông nghiệp vẫn còn gặp khó khăn, hạn chế, cần tập trung khắc phục trong thời gian tới.

Ảnh minh họa - TL

Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vị thế quan trọng

Nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng, giúp bảo đảm an ninh lương thực của đất nước, tạo thu nhập cho người dân, ổn định xã hội và là nền tảng quan trọng cho phát triển kinh tế của Việt Nam. Nông nghiệp là nguồn cung cấp và hệ thống điều tiết nguồn lực, đầu vào và tài nguyên cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành nông nghiệp là điểm sáng rực rỡ, là chỗ dựa của nền kinh tế trong bối cảnh khó khăn. Vai trò quan trọng của nông nghiệp Việt Nam trong thương mại nông sản thế giới đã đóng góp không nhỏ để nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Có thể nói, vị thế nông nghiệp sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã hoàn toàn thay đổi cả trong và ngoài nước.

Ngành nông nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, tạo việc làm, ổn định xã hội.

Nông nghiệp Việt Nam đã đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX. Tỷ trọng của nông nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) thời kỳ này rất lớn, lên đến khoảng 30 - 40%. Tỷ trọng GDP nông nghiệp giảm khi tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tăng nhanh những năm gần đây, nhưng hiện nay vẫn chiếm khoảng 11% và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm và ổn định xã hội. Đồng thời, nông nghiệp cũng là ngành tạo việc làm ổn định cho nhiều người lao động. Giai đoạn 2015 - 2023, hằng năm, ngành nông nghiệp tạo việc làm cho hơn 18 triệu người lao động.

Kể từ khi đổi mới, nông nghiệp Việt Nam có mức độ tăng trưởng khá cao và ổn định so với các nước trong khu vực. Bình quân giai đoạn 2011 - 2022, GDP nông nghiệp tăng trưởng bình quân 2,84%/năm. Mức độ tăng trưởng khá cao và ổn định của ngành nông nghiệp góp phần quan trọng trong phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Nông nghiệp cũng chính là chỗ dựa cho kinh tế cả nước mỗi khi đất nước rơi vào khủng hoảng hay suy thoái kinh tế và bệnh dịch. Nông nghiệp còn là nền tảng phát triển và ổn định xã hội, và cuộc sống phần lớn dân cư nông thôn. Nông nghiệp cũng cung cấp nguồn lực, bao gồm lao động, nguồn đầu vào cho công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, tạo tiền đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nông nghiệp góp phần quan trọng xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an ninh lương thực trong nước và trên thế giới.

Lúa gạo là mặt hàng chiến lược, liên quan, tác động trực tiếp đến an ninh lương thực, đời sống người dân và sự ổn định kinh tế - xã hội. Việt Nam từ nước phải nhập khẩu trên 1 triệu tấn lương thực, tỷ lệ đói nghèo gần 70% vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX, đến nay, nhờ ngành nông nghiệp của Việt Nam phát triển mà đa số người dân có cơ hội tiếp cận được lương thực và tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh. Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều của cả nước giảm từ 9,15% năm 2016 xuống còn 3,37% năm 2023, đặc biệt là tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn giảm nhanh từ 11,83% năm 2016 xuống còn 4,77% năm 2023, giảm 7,06 điểm %.

Nhờ chủ trương, chính sách đúng đắn về nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam dần phát huy lợi thế về sản xuất nông sản, bao gồm lúa gạo, luôn duy trì sự ổn định, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm trong nước. Nhờ sản xuất phát triển, ngành nông nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của gần 100 triệu dân trong nước, đã vượt qua được nhiều cuộc khủng hoảng, như khủng hoảng kinh tế năm 2008, năm 2011 và giai đoạn ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Đồng thời, Việt Nam còn xuất khẩu sang nhiều nước nhằm hỗ trợ bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu.

Việt Nam trở thành nước sản xuất và xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới.

Nhờ những chủ trương, chính sách đúng đắn về nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam luôn duy trì sự ổn định, sản lượng tăng hằng năm và bảo đảm nguồn cung lương thực trong nước và trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2023, GDP nông nghiệp Việt Nam đạt khoảng 22,3 tỷ USD, chiếm 0,83% GDP nông nghiệp toàn thế giới, đứng thứ 5 trên thế giới. Một số nông sản của có vị thế cao trên thế giới về sản lượng, cụ thể: tiêu đứng thứ nhất, cà-phê đứng thứ hai, cao su và điều đứng thứ ba, lúa gạo đứng thứ năm và chè đứng thứ sáu.

Một số nông sản của Việt Nam có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu xếp thứ hạng cao trên thế giới, như điều 60%, lâm sản 59,3%, tiêu 32,2%, thủy sản 28,8%, đồ gỗ 24,3%; cao-su 15%, cà-phê 14,1%, lúa/gạo 10,3%, chè 8,5% và rau quả 7,8%.

Nhờ chính sách đổi mới và phát triển, Việt Nam thực sự đã phát triển thành cường quốc xuất khẩu nông sản. Nếu năm 1986, giá trị xuất khẩu nông sản mới chỉ đạt 486,2 triệu USD thì đến năm 2000, lên 4,2 tỷ USD và đến năm 2023 lên tới 53 tỷ USD, gấp gần 110 lần so với năm 1986. Trong giai đoạn 1986 - 2023, tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt trung bình 13,5%/năm.

Nông nghiệp có vai trò ngày càng quan trọng giảm phát thải, bảo vệ môi trường.

Nông nghiệp chịu tác động của biến đổi khí hậu, nhưng cũng góp phần ảnh hưởng, gây biến đổi khí hậu, phát thải khí nhà kính. Nông nghiệp Việt Nam đóng góp khoảng 30% tổng lượng khí thải khí nhà kính toàn quốc. Mặc dù vậy, nông nghiệp cũng góp phần giảm khí nhà kính thông qua nông nghiệp xanh, bảo vệ và phát triển rừng, hướng đến những gì thân thiện với môi trường, không gây tác động tới tài nguyên thiên nhiên, không gây ra hiệu ứng nhà kính.

Mô hình nông nghiệp xanh đang ngày càng được chuyển đổi và thực hiện tại nhiều địa phương, góp phần giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Nhờ triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, sạch nên sản phẩm nông nghiệp, thủy sản sạch, truy xuất được nguồn gốc chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Nông nghiệp cũng tham gia bảo tồn, tạo không gian sinh thái, gắn kết quan hệ hữu cơ con người - động vật - cây trồng, bảo đảm sức khỏe con người, đất, cây. Sức khỏe của cá nhân hay cộng đồng không thể tách rời sức khỏe hệ sinh thái. Môi trường đất khỏe mạnh sẽ tạo ra cây trồng khỏe mạnh, nhờ đó giúp tăng cường sức khỏe của con người và động vật. Bảo tồn không gian sinh thái bằng cách bảo vệ sự sống của hệ sinh thái (thực vật, động vật và vi sinh vật trong thế giới tự nhiên). Việc phát triển và bảo vệ rừng ngày càng được Việt Nam quan tâm và đóng góp quan trọng vào bảo vệ môi trường trên Trái đất.

Nông nghiệp góp phần quảng bá, giới thiệu và phát triển giá trị văn hóa con người Việt Nam ra thế giới, thu hút du lịch, xây dựng kinh tế vùng, miền.

Mỗi sản phẩm nông nghiệp thương mại trong nước hay xuất khẩu đều gửi gắm tình cảm của người nông dân Việt Nam, nét đặc trưng văn hóa, con người Việt Nam, qua đó để thế giới hiểu hơn về Việt Nam và là cầu nối đưa Việt Nam gần hơn với thế giới.

Cùng với việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm, thông qua Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), nhiều địa phương đã quy hoạch được các vùng nguyên liệu đặc sản, phát triển ngành, nghề nông thôn, đặc biệt là bảo tồn và phát triển nhiều làng nghề truyền thống, hình thành nhiều sản phẩm OCOP gắn với vai trò như một “đại sứ” chuyển tải những câu chuyện sản phẩm mang tính nhân văn của vùng, miền. Các sản phẩm OCOP đang ngày được người tiêu dùng trong nước đón nhận, đồng thời cũng được khách du lịch đến Việt Nam biết tới nhiều hơn. Theo số liệu từ Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương, năm 2024 cả nước có 13.368 sản phẩm OCOP, cơ cấu sản phẩm hơn 70% được đánh giá 3 sao, khoảng 26% được đánh giá 4 sao, còn lại là sản phẩm 5 sao. Mang sứ mệnh giới thiệu con người và văn hóa Việt Nam, mỗi sản phẩm OCOP đến tay bạn bè quốc tế giúp lan tỏa giá trị Việt Nam, thu hút khách du lịch tìm hiểu văn hóa địa phương, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng nói chung và Việt Nam nói riêng.

Cùng với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của toàn ngành nông nghiệp đã mang lại vị thế lớn cho nông nghiệp Việt Nam trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, ngành nông nghiệp vẫn còn gặp khó khăn, hạn chế, cần tập trung khắc phục trong thời gian tới. Các yếu tố khách quan, như nguồn tài nguyên cạn kiệt, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng của thế giới đang và sẽ tác động tới sản xuất nông nghiệp của Việt Nam.

Một số định hướng cho nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới

Việt Nam có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, tạo lợi thế cạnh tranh về phát triển nông nghiệp so với nhiều nước trong khu vực, nên cần tận dụng để tối ưu hóa lợi nhuận cho nông dân và định giá đúng giá trị thương mại của nông sản Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển hướng tới sản phẩm hữu cơ, tích hợp khoa học kỹ thuật trong sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến công nghệ, xây dựng thương hiệu, tiêu chuẩn quốc tế nhằm giúp nông sản Việt Nam ngày càng nâng cao vị thế cạnh tranh, danh tiếng trên thị trường quốc tế.

Để tiếp tục phát huy vị thế này, nông nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới theo chủ trương, chính sách lớn hiện nay, đặc biệt là theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, ngày 16-6-2022, “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 19-NQ/TW) và Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 28-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Trong đó, nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Nông nghiệp phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, gắn với đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch và phát triển thị trường nông sản cả ở trong nước và ngoài nước; bảo đảm an toàn thực phẩm, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn. Chuyển mạnh tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường. Phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, tổ chức sản xuất, kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Theo đó, tầm nhìn đến năm 2045 hướng tới nông nghiệp sinh thái, sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao, gắn kết chặt chẽ với thị trường trong và ngoài nước, công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản hiện đại, xuất khẩu nhiều loại nông sản đứng hàng đầu thế giới.

Để thực hiện được mục tiêu này, trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung vào định hướng sau:

Một là, đẩy mạnh cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng hàng nông sản và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tổ chức lại sản xuất theo vùng chuyên canh, gắn với chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc và xây dựng mã số vùng trồng, vùng nuôi, thực hiện chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm theo hướng “xanh”, ít phát thải và bền vững thông qua việc thúc đẩy phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp. Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ là “đòn bẩy” phát triển kinh tế xanh và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp xanh, sạch, hữu cơ; bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm được xác định là một trong những giải pháp then chốt để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

Hai là, tiếp tục phát triển mạnh thị trường tiêu thụ nông sản cả trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh phát triển thị trường, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu nông sản. Xây dựng chuỗi giá trị ngành hàng từng loại nông sản, gắn với phát triển hạ tầng logistics nông nghiệp, nông thôn, bảo đảm chuỗi cung ứng thị trường trong nước.

Ba là, tăng cường phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và quản lý hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản, bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Phát triển tổ chức hợp tác, trung tâm nghiên cứu, chuyển giao khoa học, công nghệ và kinh doanh dịch vụ cơ giới nông nghiệp; đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò là “trụ cột” của chuỗi giá trị. Phát triển cụm liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ nông sản được cơ giới hóa đồng bộ tại các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung.

Bốn là, tiếp tục tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm nông nghiệp và vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh tổ chức sản xuất tập trung sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm chủ lực địa phương theo chuỗi giá trị gắn với chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm.

Năm là, xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm; tổ chức cấp mã số vùng trồng, vùng nuôi, ao nuôi bảo đảm truy xuất nguồn gốc; mã cơ sở đóng gói, nhãn mác hàng nông sản. Nhân rộng các chuỗi cung ứng ngành hàng, chuỗi giá trị nông sản an toàn gắn với truy xuất nguồn gốc.

Sáu là, đổi mới và phát triển hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp; hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Tăng cường liên kết giữa hợp tác xã, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị ngành hàng, sản phẩm. Phát triển vùng sản xuất tập trung, gắn với công nghiệp chế biến, phát triển thương hiệu nông sản vùng, miền, địa phương phục vụ nhu cầu xuất khẩu.

Bảy là, thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ sạch vào sản xuất. Nâng cao trình độ nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học - công nghệ, giải quyết các khâu then chốt phát triển nông nghiệp, tập trung vào sản phẩm chủ lực xuất khẩu, sản xuất giống có năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu; công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Tăng cường đầu tư cho khoa học - công nghệ phục vụ phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và chế biến nông sản. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào đầu tư phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và chế biến nông sản.

Tám là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số. Tiếp tục rà soát, sửa đổi chính sách đất đai, đầu tư, bảo hiểm, tín dụng, bảo đảm hài hòa lợi ích lâu dài giữa doanh nghiệp, người nông dân, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, hỗ trợ thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp.

Chín là, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành nông nghiệp đã góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, tạo sinh kế, việc làm, thu nhập ổn định cho phần lớn cư dân nông thôn, qua đó góp phần quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát triển của đất nước. Nông nghiệp Việt Nam đang ngày càng khẳng định vai trò và vị thế to lớn trong quá trình phát triển của đất nước, là ngành kinh tế thiết yếu, là lợi thế quốc gia. Cùng với chính sách, sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc của bộ, ngành, địa phương, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của doanh nghiệp, hợp tác xã và hàng triệu hộ nông dân, trong thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nâng tầm vị thế Việt Nam trên thế giới ./.

Lê Minh Hoan

Ủy viên TƯ Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội

...