05/05/2024 lúc 01:44 (GMT+7)
Breaking News

Về xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và hệ giá trị con người Việt Nam trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược từ 1975 đến nay

Xây dựng các hệ giá trị cốt lõi, trong tương quan với việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam - xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN - ngoài chức năng thể hiện ý chí, niềm tin, khát vọng phát triển của cả dân tộc, thì còn là nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu phản ánh sự đúc kết, kế thừa những giá trị thực tế mà các thế hệ người Việt đã tạo dựng nên từ thực tế, dù sự đúc kết đó có thể chỉ là quá trình không chủ động.

Với hệ giá trị văn hóa Việt Nam, hành lang cơ bản chính là các giá trị cốt lõi đã được ghi trong văn bản từ năm 1998. Việc bổ sung chỉnh sửa cần thiết phải bám sát hành lang này. Về hệ giá trị quốc gia, thể hiện sức mạnh  bản sắc Dân tộc - Quốc gia, những giá trị cần được nhấn mạnh vẫn phải là độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và sự thống nhất của cộng đồng 54 dân tộc. Về hệ giá trị gia đình, tế bào sống còn của xã hội, thì giá trị được xây dựng vẫn cần phải thể hiện được: gia đình là tâm điểm quy định quỹ đạo của hành vi và hoạt động của mỗi cá nhân. Về giá trị hay chuẩn mực con người, thì các giá trị văn hóa đã được khẳng định nên được coi là khung khổ xác định các chuẩn mực của từng tầng lớp cư dân, lý tưởng được phản ánh trong các chuẩn mực con người vẫn là nhằm mục tiêu phát triển con người toàn diện, hội tụ được các giá trị truyền thống và hiện đại về chân thiện, mỹ.

Giá trị kỳ vọng, thông thường rất khó trùng hợp với các giá trị mà bản thân đời sống đã tạo dựng nên. Nhưng một hệ giá trị có thể được coi là hoàn hảo khi nó không xa lạ với những giá trị thực tế của bản thân đời sống.

1. Giá trị kỳ vọng và giá trị ngầm định

Không nhiều quốc gia đã xây dựng hay có tuyên bố về các hệ giá trị cốt lõi của mình, đặc biệt, hệ giá trị quốc gia (Nation-state Core Values). Xác định hệ giá trị (Core Values) trên thực tế chỉ là công việc yêu thích của các doanh nghiệp, các công ty dịch vụ, các đảng phái, các quân binh chủng quân đội hay các nghiệp đoàn xã hội… ở một số nước.

Ở Việt Nam, việc xác định các hệ giá trị cốt lõi cho giai đoạn hiện nay là tiếp tục truyền thống có từ năm 1943 về đường lối xây dựng một nền văn hóa Dân tộc, Khoa học, Đại chúng (trong “Đề cương văn hóa Việt Nam”); từ năm 1945 về xác định Quốc hiệu của một Quốc gia Độc lập, Tự do, Hạnh phúc; và cũng là tiếp tục một quan điểm từ năm 1998 về xây dựng một nền văn hóa Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (NQTW5 khóa VIII). Xác định hệ giá trị các hệ giá trị cốt lõi, do vậy được coi là công việc có tầm vóc chiến lược, có ý nghĩa quan trọng, đòi hỏi phải cẩn trọng, sâu sắc.

Bởi lẽ, xác định các hệ giá trị cốt lõi Việt Nam, về thực chất, là tìm kiếm các định hướng sáng suốt để đời sống gia đình phát triển lành mạnh, là tế bào của tiến bộ xã hội; văn hóa nghệ thuật sáng tạo được nhiều tác phẩm trí tuệ có giá trị nâng cao trình độ học thuật chuyên môn và mặt bằng dân trí; con người có tự do, dân chủ là trung tâm của sự phát triểnQuốc gia giàu mạnh, trở thành nước phát triển và xã hội phồn vinh, hạnh phúc…

Nhưng trên thực tế ở một số quốc gia và ở các tổ chức chính trị - xã hội, một hệ giá trị được xác định, dù đã tốt nhất, vẫn không tránh khỏi mới chỉ là những giá trị kỳ vọng, những niềm tin chủ quan, những phương án cảm tính… mà ý nghĩa định hướng của chúng thường là không dễ thực hiện và rất khó kiểm soát. Trong khi đó, các giá trị đích thực của đời sống, lại tồn tại thực dưới hình thức các giá trị ngầm địnhâm thầm hay mãnh liệt chảy trong lòng xã hội. Các hệ giá trị cốt lõi đã được xây dựng ở Thái Lan, Mỹ… hay ở một số doanh nghiệp, đảng phái, tổ chức xã hội, quân binh chủng quân đội… đều là những hệ giá trị như vậy.

Với Việt Nam, các giá trị ngầm định ấy là sản phẩm khách quan, tất nhiên của xã hội Việt Nam hôm nay - một cơ thể đang phát triển mạnh với nhiều mâu thuẫn chứa đựng trong nó: cái chân đan xen với cái giả và không ít khi vẫn bị cái giả lộng hành; cái đẹp, cái thiện vẫn phải nhẫn nại sống chung với cái bất lương, cái xấu, cái ác...

2. Về giá trị và hệ giá trị

Vấn đề giá trị và cách nhìn giá trị học bắt nguồn từ lối tư duy truyền thống của người Hy Lạp cổ đại. Ngay từ vài thế kỷ trước Công nguyên, các nhà triết học Pithagoras, Socrates, Plato, Aristotle… khi tranh biện, đã phân biệt được sự khác nhau của các phán đoán dựa trên thực tế với các phán đoán dựa trên giá trị. Sự phân biệt này là lời cảnh báo đầu tiên đối với khuynh hướng tư duy triết học có xu hướng thoát ly khỏi tư duy khoa học, lý luận có xu hướng thiếu gắn kết với thực tiễn và ngược lại. Với giá trị, các nhà triết học triết học Hy Lạp cổ đại cũng đã có những ý tưởng khá sâu về tính khách quan và tính chủ quan của các giá trị. Về sau, Immanuel Kant, Jakob Friedrich Fries, Hermann Lotze… là những người đã khai thác và phát triển tư tưởng này thành những luận thuyết triết học về giá trị chủ quan và giá trị khách quan, mở ra những xu hướng rất nền tảng để con người giải quyết những vấn đề của xã hội hiện đại.

Mặc dù có nguồn gốc từ triết học Hy lạp cổ đại, nhưng Giá trị học (Axiology, có gốc từ tiếng Hy Lạp Άξιος) lại là một loại hình triết học về giá trị được thừa nhận là xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, khi các học phái triết học đã phát triển đến trình độ cao. Các nhà triết học Đức và châu Âu, khi nghiên cứu đạo đức học về điều thiện và mỹ học về cái đẹp của triết học Hy Lạp cổ đại, đã nhận thấy sự tồn tại nhiều giá trị khác bên cạnh giá trị hàng hóa mà Adam Smith đã khẳng định trong kinh tế học chính trị. Giá trị học ra đời trên cơ sở mở rộng đáng kể quan niệm về giá trị của Adam Smith. Thuật ngữ Axiology được Paul Lapie sử dụng lần đầu tiên vào năm 1902 và sau đó là Eduard von Hartmann vào năm 1908. Axiology chủ yếu nghiên cứu các loại giá trị trong đời sống đạo đức và thẩm mỹ - chân, thiện, mỹ, hài hòa... Ngoài ra Axiology hình thức (Formal Axiology), một hướng nghiên cứu các nguyên tắc giá trị bằng toán học, được đề xuất và phát triển bởi nhà triết học Mỹ gốc Đức Robert S. Hartman. Giá trị học có đối tượng nghiên cứu là giá trị (Values) và có chức năng là nghiên cứu về cái tốt, cái đẹp, cái có giá trị theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này[1].

Ở Việt Nam, giá trị học đến nay chưa hề được giảng dạy trên bất cứ giảng đường nào, kể cả đối với các sinh viên chuyên triết.

Đặc trưng của vấn đề giá trị và cách nhìn giá trị học là ở chỗ, con người khác hẳn các loài khác là không chỉ sống trong thế giới các đồ vật mà còn sống trong thế giới các giá trị. Chỉ có con người mới nhìn mình và nhìn thế giới qua lăng kính giá trị. Hay hoặc dở, xấu hay đẹp, thiện hay ác, cao cả hay thấp hèn, vĩ đại hay tầm thường, đắt hay rẻ… đó là những khuôn thước chỉ con người mới dùng để xem xét thế giới. Bản thân thế giới không tự nó đẹp hay xấu, thiện hay ác, vĩ đại hay tầm thường… Vì thế giá trị đạo đức hay giá trị văn hóa, giá trị truyền thống hay giá trị hiện đại, giá trị xã hội hay giá trị cá nhân, giá trị dân tộc hay giá trị giai cấp… tất cả đều là thang bậc đánh giá của con người. Nhưng điều thú vị của cách nhìn giá trị là, những thang bậc ấy lại không thuần túy chỉ mang tính chủ quan, không thuần túy chỉ là sản phẩm tưởng tượng của đầu óc hơn kém của con người. Có những giá trị chủ yếu là do thực tế khách quan quy định, nhưng có những giá trị chủ yếu là nảy sinh từ quan niệm chủ quan của con người.

Có rất nhiều định nghĩa khái niệm giá trị có thể trích dẫn được. Các sắc thái và các nội dung được nhấn mạnh trong mỗi định nghĩa thường không giống nhau, nhưng nội hàm của khái niệm thì cơ bản là không mấy khác nhau. Do vậy, chúng tôi thấy việc cần thiết hơn trích dẫn là diễn giải cách hiểu xuyên qua các định nghĩa đó.

Theo chúng tôi, hiểu theo nghĩa phổ biến nhất, giá trị là ý nghĩa của sự vật, hiện tượng - đối tượng được xem xét - mà con người - xã hội, cộng đồng hoặc cá nhân - nhìn nhận và đánh giá về sự vật, hiện tượng đó. Nói cách khác, giá trị chẳng qua chỉ là ý nghĩa của sự vật được bộc lộ trong và đối với đời sống con người. Trong số các định nghĩa mà chúng tôi được biết, định nghĩa của Từ điển bách khoa triết học Nga xuất bản lần đầu năm 1989 theo chúng tôi, là hay nhất, rõ nhất, phản ánh được nội hàm khái niệm. Định nghĩa được diễn đạt như sau: “Giá trị là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu triết học và xã hội học dùng để chỉ ý nghĩa văn hóa và xã hội của các hiện tượng. Về thực chất, toàn bộ sự đa dạng của hoạt động người, của các quan hệ xã hội, bao gồm cả những hiện tượng tự nhiên có liên quan, có thể được thể hiện là các “giá trị khách quan” với tính cách là khách thể của quan hệ giá trị, nghĩa là, được đánh giá trong khuôn thước của thiện và ác, chân lý và sai lầm, đẹp và xấu, được phép và cấm kỵ, chính nghĩa và phi nghĩa, v.v.. Khi định hướng đối với hoạt động của con người, phương thức và tiêu chuẩn được dùng làm thể thức đánh giá sẽ định hình trong ý thức xã hội và trong văn hóa thành các “giá trị chủ quan” (bảng đánh giá, mệnh lệnh và những điều cấm, mục đích và ý đồ... được thể hiện dưới hình thức các chuẩn mực). Giá trị khách quan và giá trị chủ quan là hai cực của quan hệ giá trị của con người với thế giới”[2].

Về “hệ giá trị”, thực ra đây không hẳn là khái niệm độc lập, mà chỉ là cách gọi nhằm để chỉ một tập hợp của những giá trị của một cộng đồng nhất định. Trong sách báo lý luận, “hệ giá trị” đôi khi còn được gọi là “bảng giá trị”. Khi các giá trị tồn tại trong hệ giá trị hay bảng giá trị, hệ giá trị đóng vai trò là giá trị quan, thể hiện quan điểm giá trị, cách nhìn giá trị, xu hướng định hướng giá trị của chủ thể. Chẳng hạn, trong hệ giá trị của người Việt, yêu nước, hiếu học, cần cù lao động, trách nhiệm cộng đồng… là những giá trị hàng đầu; còn trong hệ giá trị của người Mỹ, những giá trị hàng đầu lại là tự lực cánh sinh, sáng tạo, có khả năng làm thay đổi cộng đồng… Hiểu được giá trị quan của một cộng đồng, người ta có thể hiểu được tại sao đối với cộng đồng này thì hiếu học, yêu lao động… là những giá trị được ưu tiên, còn đối với cộng đồng khác thì tự lực cánh sinh hay sáng tạo lại được ưu tiên. Không có dân tộc nào kém tinh thần yêu nước, nhưng không phải mọi dân tộc đều xếp yêu nước là giá trị đầu bảng. Cũng tương tự, gia đình nào cũng coi giàu có, đỗ đạt, sang trọng… là giá trị, nhưng do điều kiện sống hoặc do đặc thù về thái độ, niềm tin, sở thích… nên không nhiều gia đình đặt mục tiêu hàng đầu là giàu có, đỗ đạt, sang trọng hoặc vinh hiển... Nghĩa là bảng giá trị của mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia… thường là khác nhau, điều đó do sự ưu tiên lựa chọn của chủ thể quy định; nhưng như vậy không có nghĩa là người Việt yêu nước, hiếu học, còn dân tộc khác thì không yêu nước và không hiếu học[3]. Lối suy diễn từ sự nhầm lẫn giữa giá trị và bảng giá trị đã khiến cho một số người thắc mắc, khi Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII trước đây khẳng định một số giá trị cụ thể của văn hóa Việt Nam[4].

3. Vấn đề xây dựng các hệ giá trị cốt lõi ở Việt Nam

Hệ giá trị của văn hóa Việt Nam trên thực tế là được xác định từ NQTW 5 khóa VIII năm 1998. Tuy nhiên, sau 15 năm thực hiện, như đánh giá chính thức tại NQTW 9 khóa XI (33-NQ/TW), “Thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại”[5].

Với nội dung “hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người…, xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, NQ số 33-NQ/TW đã ra đời năm 2014 nhằm khắc phục tình trạng đó.

Mặc dù vậy, sau 5 năm thực hiện 33-NQ/TW khóa XI, tức là sau 20 năm thực hiện NQTW 5 khóa VIII, các vấn đề về văn hóa và con người, đặc biệt tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội lại dường như ngày càng có chiều hướng bức xúc hơn. Ngày 4/6/2020 Bộ Chính trị đã ra kết luận đánh giá tình trạng này. Kết luận chỉ rõ, sự nghiệp phát triển văn hóa và xây dựng con người, bên cạnh những thành tựu đáng kể đã đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, trong đó, “Việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại”[6].

Đây cũng chính là lý do khiến vấn đề xây dựng chuẩn mực con người được đặt ra tại Đại hội XIII của Đảng. Trong nội dung thứ VII của Báo cáo chính trị “Xây dựng và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người”, Văn kiện Đảng xác định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới… Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam đã tồn tại trong lịch sử; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”[7].

Nội dung này có phần khác trước, khi về mặt lý luận, chủ trương xây dựng chuẩn mực con người được thay thế cho việc xác định hệ giá trị con người Việt Nam.

Nếu từ năm 1998 tức là từ Hội nghị Lần thứ 5 BCH TW khóa VIII, đến năm 2014, khái niệm được dùng chủ yếu trong các tài liệu lý luận là “Hệ giá trị văn hóa Việt Nam”, thì từ năm 2014 tức là từ Hội nghị lần thứ 9 BCH TW khóa XI, khái niệm “Hệ giá trị con người” đã được sử dụng phổ biến hơn. Từ đó, trên sách báo lý luận hai khái niệm này thường được dùng song song với nhau hoặc được gọi là “Hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam”.

Sự dịch chuyển của việc sử dụng các khái niệm này có một ý nghĩa nhất định.

Bởi hệ giá trị văn hóa ở phạm vi cộng đồng, đặc biệt ở phạm vi các cộng đồng lớn như dân tộc hay quốc gia, về thực chất cũng chính là hệ giá trị con người. Không có văn hóa nào không phản ánh khả năng và trình độ của chủ thể của nó là con người cả. Nói đến giá trị văn hoá, chẳng qua là nói đến giá trị của kẻ làm ra nó - con người (con người tạo ra văn hóa - giới tự nhiên thứ hai). Nhưng đáng chú ý hơn, đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã xuất hiện tình trạng văn hóa xuống cấp, thậm chí đến mức đáng lo ngại, “không đủ để tác động có hiệu quả đến xây dựng con người. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng”[8]. Do vậy, việc chú trọng hơn đến việc xây dựng các chuẩn mực con người có thể coi là một bước đi thiết thực hơn trong hoạt động lý luận và thực tiễn về xây dựng con người và văn hoá Việt Nam.

Tại Hội nghị văn hoá toàn quốc 24/11/2021, về các giá trị cốt lõi mà văn kiện Đại hội XIII đã đề cập, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng coi một trong những “nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá dân tộc” là: “Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hoá gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”[9].

4. Về hệ giá trị quốc gia

Không nhiều quốc gia đã xây dựng hay có tuyên bố về hệ giá trị quốc gia (Nation-state Core Values) của mình[10]. Nhưng điều đó không có nghĩa là mỗi quốc gia - dân tộc không có hệ giá trị ở trình độ quốc gia dẫn dắt và soi đường cho họ phát triển. Lịch sử đặc thù của mỗi quốc gia, trên thực tế luôn tạo ra những hành lang an toàn và hợp lý, gồm những giá trị bản chất và đặc thù mà quốc gia đó đã trải qua và đang hướng tới, để con người vận dụng kinh nghiệm, phát hiện quy luật phát triển, đồng thời củng cố niềm tin và ý chí, tạo động lực đi về tương lai.

Đối với bất cứ quốc gia nào, nói tới hệ giá trị quốc gia là nói tới hệ giá trị gắn liền với sức mạnh quốc gia, cũng là hệ giá trị có ý nghĩa xác định bản sắc quốc gia. Các dấu hiệu bản chất về sự tồn tại của một quốc gia là độc lập, có chủ quyền; có sự thống nhất về kinh tế, xã hội và văn hoá; có sự đồng thuận về xã hội; dân chủ, dân quyền được đảm bảo... Đây chính là các giá trị tạo nên sự tồn tại của một quốc gia.

Mặc dù các giá trị quốc gia cơ bản là giống nhau hoặc tương đương nhau giữa các quốc gia, nhưng trong thực tế, chúng lại được thực hiện và ưu tiên không giống nhau ở các quốc gia. Điều đó do điều kiện địa lý, tình huống lịch sử, tâm thức con người và đặc thù văn hoá xã hội… quy định. Những nét đặc thù đó làm nên bản sắc quốc gia.

Gắn liền với sức mạnh quốc gia, hệ giá trị quốc gia có ý nghĩa khách quan, thực tế, tức là được hình thành, xác định từ trong lịch sử, là kết quả của quá trình lao động, đấu tranh để tồn tại và phát triển của các cộng đồng. Nhưng không khách quan tuyệt đối, hệ giá trị quốc gia còn phản ánh những mong muốn, kỳ vọng, lý tưởng và niềm tin… của các cộng đồng; là cảm nhận và tâm thức của con người về tương lai đất nước. Nghĩa là giá trị quốc gia có chức năng định hướng, tạo tâm thế tích cực, thậm chí thiêng liêng để các quốc gia thực hiện mục tiêu phát triển kỳ vọng của mình.

5. Về chuẩn mực con người

Đành rằng đối với con người nói chung, thậm chí con người ở trình độ toàn nhân loại, vẫn cần có (và đã có) những chuẩn mực xã hội cho những quan niệm, hoạt động và hành vi của họ. Tuy nhiên, việc xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam, trên thực tế, lại đòi hỏi phải xây dựng cho được những chuẩn mực đủ khái quát, nhưng vẫn phù hợp với những con người cụ thể, hoạt động trong những lĩnh vực cụ thể, với những nghề nghiệp cụ thể, ở những trình độ lao động cụ thể...

Chuẩn mực con người của một bác sĩ chắc chắn phải khác với chuẩn mực của một người thợ trong dây chuyền sản xuất công nghiệp hay nông nghiệp. Đây là một đòi hỏi khá phức tạp đặt ra đối với giới nghiên cứu. Nếu chuẩn mực con người chỉ được xác định ở những phẩm chất chung nhất, phổ biến nhất, thì ý nghĩa của việc xác định có thể sẽ là không nhiều. Còn nếu xác định chuẩn mực con người cho từng tầng lớp xã hội cụ thể, từng nhóm người cụ thể, hay cho từng loại hoạt động người cụ thể, thì khách thể và đối tượng của việc xác định lại quá lớn và quá chi tiết; tính khái quát và định hướng nhân sinh quan của chuẩn mực trở nên mờ nhạt.

Chỉ ngay với khái niệm “con người Việt Nam”, từ khá lâu trong giới nghiên cứu cũng đã có những tranh cãi khi phải phân biệt đâu là người Việt. Người Ê đê, người Mường, người Chăm, người Thái hay người các dân tộc thiếu số tại các địa phương…, khi được gọi là người Việt, thì vấn đề cũng không có gì quá phức tạp. Nhưng gọi là người Việt đối với người gốc nước ngoài mang quốc tịch Việt Nam, người gốc Việt không có quốc tịch Việt, hay người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, người Khmer ở Tây Nam bộ… thì những bất hợp lý có thể sẽ xuất hiện.

Việc xác định chuẩn mực con người cần thiết phải tính đến điều này.

Chuẩn mực con người Việt Nam là chuẩn mực của các cư dân trong toàn xã hội Việt Nam, gồm tất cả các nhóm xã hội, các tầng lớp dân tư, các công dân Việt. Chỉ cần duy nhất một cộng đồng nào đó cảm thấy chuẩn mực được xác định là xa lạ đối với họ, thì việc xác định chuẩn mực con người Việt Nam đã khó có thể coi là thành công.

Theo lý thuyết về chuẩn mực thì chuẩn mực xã hội chỉ thực sự là chuẩn mực khi áp dụng đối với các nhóm nhỏ. Còn đối với các nhóm lớn, đặc biệt đối với toàn xã hội, chuẩn mực xã hội không thể vẫn là các thiết chế có tính chất quy tắc, quy phạm, quy ước, tức là các chế tài có ý nghĩa cấm kỵ hoặc trừng phạt. Ở những phạm vi này, chuẩn mực xã hội dần nhường chỗ cho luật pháp.

Như vậy, chuẩn mực con người Việt Nam nếu được xây dựng một cách hợp lý thì cũng mới chỉ là tập hợp những quan niệm, những nguyên tắc kỳ vọng, có tính chất lý tưởng, chủ yếu về phương diện đạo đức hay nhân sinh quan. Điều đáng suy nghĩ là ở chỗ, nếu chỉ mang tính quy ước, chỉ là những quan niệm, những nguyên tắc lý tưởng, giống như những lời khuyên về phương diện đạo đức, thì tính chuẩn mực của các chuẩn mực xã hội đối với con người sẽ có ý nghĩa như thế nào.

Theo tinh thần bài nói của Tổng Bí thư Tại Hội nghị văn hoá toàn quốc 24/11/2021, việc xây dựng con người Việt Nam theo những chuẩn mực phù hợp, gắn với các giá trị cốt lõi (hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị gia đình Việt Nam) là đòi hỏi cấp thiết của đời sống hiện  nay. Có thể coi “yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, và sáng tạo” là một phương án xác định chuẩn mực của con người Việt Nam phù hợp với những yêu cầu của thời kỳ mới.

6. Về hệ giá trị gia đình Việt Nam

Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển của dân tộc Việt Nam, gia đình bao giờ cũng giữ vai trò là tế bào của xã hội, là tổ ấm duy trì nòi giống, là thiết chế không thể thay thế để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách mỗi người. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống, khơi dậy lòng yêu nước, bồi đắp tinh thần tự cường dân tộc, giải quyết các vấn đề xã hội, tạo động lực để xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc... xưa cũng như nay, không bao giờ thiếu sự đóng góp lớn lao của thiết chế gia đình.

Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp mà gia đình Việt Nam đã xây dựng và gìn giữ được đến ngày hôm nay, chính là sức mạnh vĩ đại của cả cộng đồng dân tộc. Trải qua quá trình lịch sử của công cuộc dựng nước và giữ nước, những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam đã được định hình và tỏ ra là có sức sống bền vững. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, Tình yêu quê hương và yêu thương con người, Truyền thống thủy chung và hiếu nghĩa, Tinh thần hiếu học và cần cù lao động, sáng tạo,... - tất cả những phẩm chất ấy đã được các thế hệ gia đình Việt Nam gây dựng và giữ gìn, vun đắp và phát huy, để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau như một hành trang vô giá để tiếp tục phát triển.

Đối với mỗi cá nhân người Việt Nam, gia đình luôn là cội nguồn của mọi thành công, là điểm xuất phát để giải quyết mọi khó khăn trong công việc và trong đời sống. Khi mỗi cá nhân thắng lợi hay thành đạt, sau lưng họ là gia đình. Khi mỗi cá nhân gặp khó khăn hay thất bại, gia đình là nơi có thể đem lại cho họ hy vọng và nghị lực. Gia đình Việt Nam xưa nay luôn là nơi bình yên của mọi con người. Sự giáo dục, chăm sóc, thương yêu của gia đình, sự vun đắp, dành mọi điều tốt đẹp nhất cho các thế hệ sau đã, đang và sẽ vẫn là nguồn lực to lớn cho sự trưởng thành của mỗi cá nhân, thúc đẩy mỗi các nhân phải có trách nhiệm đối với gia đình, xã hội và đất nước.

Đất nước phát triển, Tổ quốc vững bền không tách rời với gia đình yên ấm, con người hạnh phúc.

Trong giai đoạn hiện nay, trước sự biến động to lớn của xã hội, cấu trúc và quan hệ gia đình Việt Nam có những thay đổi, thậm chí có những thay đổi làm mai một truyền thống. Tuy vậy, giá trị cơ bản của gia đình vẫn luôn là thiêng liêng đối với mỗi con người. Gia đình vẫn là thiết chế giữ được nhiều nhất những nét tốt đẹp của truyền thống. Và vì vậy, giá trị gia đình sẽ vẫn mãi là một nhân tố đặc biệt đối với sự phát triển xã hội và đất nước.

Kết luận

Việc xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam có thể coi là đã có hành lang cơ bản với các giá trị cốt lõi đã được xây dựng từ NQTW 5 năm 1998. Dĩ nhiên, bổ sung chỉnh sửa vẫn là cần thiết, nhưng hành lang cơ bản thì có thể coi là đã được xác định. Về hệ giá trị quốc gia, những giá trị cốt lõi mà việc xây dựng không nên thoát ly là độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ với sự thống nhất tinh thần và ý chí của 54 dân tộc anh em - những nhân tố thể hiện và tạo nên sức mạnh  bản sắc Dân tộc - Quốc gia. Về hệ giá trị gia đình, ý nghĩa sống còn của nó vẫn là một thiết chế đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, là tế bào lành mạnh của xã hội, dù xã hội có phát triển theo hướng nào. Do vậy, giá trị gia đình cần được xây dựng như là tâm điểm quy định quỹ đạo của hành vi và hoạt động của mỗi con người - người thành đạt cũng như người thất bại, người có trọng trách lớn đối với xã hội cũng như người dân bình thường. Về giá trị hay chuẩn mực con người, thì các giá trị văn hóa đã được khẳng định nên được coi là khung khổ xác định các chuẩn mực của từng tầng lớp cư dân. Yêu cầu cao cả cần được phản ánh trong các chuẩn mực con người vẫn là nhằm mục tiêu phát triển con người toàn diện, hội tụ được các giá trị truyền thống và hiện đại về chân thiện, mỹ.

Về lý thuyết, các hệ giá trị cốt lõi đang được xây dựng dẫu thành công đến mấy, vẫn chỉ là các giá trị kỳ vọng. Trong thực tế, rất ít khi giá trị kỳ vọng trùng khít với các giá trị mà đời sống con người (do mục tiêu sống và phát triển thực tế của chính họ) đã tạo dựng nên. Không xa lạ với những giá trị thực tế như vậy của bản thân đời sống - là yêu cầu chính đáng (không nên, không được phép lảng tránh) đặt ra đối với việc xây dựng các hệ giá trị cốt lõi.

Xây dựng các hệ giá trị cốt lõi Việt Nam (hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị quốc gia, chuẩn mực con người Việt Nam), về thực chất, đó là sự tìm kiếm một tổng thể các giá trị tin cậy, lý tưởng để định hướng thái độ và hành vi con người và cộng đồng, nhằm đánh thức tiềm năng, củng cố niềm tin, khơi dậy ý chí phát triển…  để từng con người và toàn xã hội phát triển lành mạnh, thu hút được ngoại lực và tinh hoa văn hoá, văn minh nhân loại, thực hiện thành công mục tiêu kỳ vọng đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao.

GS,TS Hồ Sĩ Quý , Ủy viên Hội đồng lý luận TW,

Nguyên Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội,

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 

Tài liệu:

  1. Axiology. https://www.britannica.com/topic/axiology.
  2. Class 6 America's Core Values: Liberty, Equality & Self-Governmenthttps://quizlet.com/220242766/class-6-americas-core-values-liberty-equality-self-government-flash-cards/
  3. ĐCSVN (1998), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ năm khoá VIII, Nxb. CTQG. Hà Nội.
  4. ĐCSVN (2014). NQTW 9 khóa XI. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-33-NQ-TW-2014-xay-dung-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-237544.aspx
  5. ĐCSVN (2020). Kết luận 76-KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/van-hoa-xa- hoi/Ket-luan-76-KL-TW-2020-thuc-hien-Nghi-quyet-33-NQ-TW-xay-dung-con-nguoi-dap-ung-yeu-cau- phat-trien-444754.aspx.
  6. ĐCSVN (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. t. I. Nxb. CTQG. tr. 143.
  7. ĐCSVN (2014) NQ HNTW 9 khóa XIhttps://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-33-NQ-TW-2014-xay-dung-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-237544.aspx
  8. Kohls, L. Robert (1989). The values americans live by. BYhttps://www.fordham.edu/download/downloads/id/3193/values_americans_live_by.pdf
  9. Hồ Sĩ Quý (2006). Về giá trị và giá trị châu Á. Nxb. CTQG. Hà Nội.
  10. Smolicz J. J. (2002). Core values and nation-stateshttps://www.degruyter.com/document/doi/10.1515/9783110852004.69/html
  11. Switzerland Global Enterprise (2016) Intercultural Values. http://www.iberglobal.com/files/2016/intercultural_values_swiss.pdf
  12. The Twelve Core Values for a Strong Thailand. http://122.155.92.12/nnt_en/Core_Values/
  13. Nguyễn Phú Trọng (2021). Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị văn hóa toàn quốc. https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-van-hoa-toan-quoc.htmlU.S. Department of StateCore Valueshttps://20092017.state.gov/s/d/rm/rls/dosstrat/2004/23502.htm
  14. Ценность. Философский Энциклопедический Словарь. Изд. Советская Энциклопедия. Mocквa, 1989. с. 732-733.

[2] Ценность. Философский Энциклопедический Словарь. Изд. Советская Энциклопедия. Mocквa, 1989. с. 732-733.

[3] Xem: Hồ Sĩ Quý (2006). Về giá trị và giá trị châu Á. Nxb. CTQG. Hà Nội.

[4]  Bản sắc văn hóa Việt Nam, tức những giá trị của văn hóa Việt Nam, của con người Việt Nam được khẳng định trong NQTW 5 khóa VIII là: 1). Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. 2). Ý thức cộng đồng (cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc). 3). Sự tôn trọng tình nghĩa (đạo lý, nhân ái, khoan dung). 4). Cần cù trong lao động. Sự tinh tế trong ứng xử và giản dị trong lối sống. Xem: ĐCSVN (1998), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ năm khoá VIII, Nxb. CTQG. Hà Nội. tr. 56.

[5] ĐCSVN (2014). NQTW 9 khóa XI. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-33-NQ-TW-2014-xay-dung-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-237544.aspx

[6] ĐCSVN (2020). Kết luận 76-KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/van-hoa-xa- hoi/Ket-luan-76-KL-TW-2020-thuc-hien-Nghi-quyet-33-NQ-TW-xay-dung-con-nguoi-dap-ung-yeu-cau- phat-trien-444754.aspx.

[7] ĐCSVN (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. t. I. Nxb. CTQG. tr. 143.

[8] ĐCSVN (2014) NQ HNTW 9 khóa XIhttps://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-33-NQ-TW-2014-xay-dung-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-237544.aspx

[9] Nguyễn Phú Trọng (2021). Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị văn hóa toàn quốc. https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-van-hoa-toan-quoc.html.

[10] Xem: