26/04/2024 lúc 12:02 (GMT+7)
Breaking News

Văn hóa – Con người, nhân tố đảm bảo sự phát triển bền vững của Việt Nam

Tầm quan trọng của văn hóa là điều không cần phải bàn thảo... Tuy nhiên, điều quan trọng hiện nay là làm thế nào để khai thác các giá trị văn hóa như một nguồn tài nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước, phát huy ''sức mạnh mềm'' của văn hóa cho việc hiện thực hóa mục tiêu văn hóa được đặt ngang bằng với kinh tế, chính trị và xã hội.
Hình ảnh về đất nước, văn hóa, lịch sử, con người, chính sách của Việt Nam được quảng bá, phổ biến, giúp nhân dân thế giới hiểu biết, yêu mến Việt Nam

Cho đến nay hàng trăm công trình nghiên cứu, trong đó có những tổng kết có giá trị về lý thuyết và những khám phá đặc sắc về các lĩnh vực và dạng thức văn hóa cụ thể đã được công bố trong và ngoài nước. Tuy nhiên, điều quan trọng hiện nay là làm thế nào để khai thác các giá trị văn hóa như một nguồn tài nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Với mong muốn được góp phần vào việc phát huy sức mạnh mềm của văn hóa, bài viết này, trên cơ sở phân tích đặc trưng của văn hóa Việt Nam, sẽ đề xuất một số giải pháp cụ thể cho việc hiện thực hóa mục tiêu văn hóa được đặt ngang bằng với kinh tế, chính trị và xã hội.

Văn hóa là nền tảng của phát triển bền vững

Trước hết cần làm rõ nên hiểu thế nào về văn hóa. Văn hóa là thuật ngữ được nhắc tới với tần số vô cùng lớn và được sử dụng hết sức linh hoạt. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí hoàn toàn về nội hàm của khái niệm này. Có thể liệt kê ra hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Hầu như mỗi tác giả khi nghiên cứu về văn hóa đều không thỏa mãn với những định nghĩa đã có nên thường đưa ra định nghĩa cho riêng mình. Điều này nói nên tính chất đa dạng và phong phú của văn hóa, nhưng nếu nghiên cứu kỹ các các định nghĩa này thì kỳ thực chúng chỉ là cách diễn đạt khác nhau của hai quan niệm về văn hóa.

Thứ nhất, có một quan niệm từ khá lâu cho rằng văn hóa chỉ là một lĩnh vực hoạt động của đời sống, tương ứng với những quan hệ xã hội, những sáng tạo tinh thần…Trên ý nghĩa này trong quan niệm hiện đại, về đại thể, văn hóa gần giống với những gì thuộc phạm vi quản lý của Bộ Văn hóa thể thao và du lịch ở Trung ương và các cơ quan theo ngành dọc ở địa phương (sở, phòng,..).

Thứ hai, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng, là tất cả những gì một công đồng người (lớp người, cư dân một phương, một dân tộc…) sáng tạo ra vì mục đích tồn tại và phát triển. Quan niệm này dựa vào định nghĩa của các nhà văn hóa học, theo đó, văn hóa được xem là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử [1]. Quan niệm này được UNESCO tích hợp vào phạm trù di sản văn hóa, theo đó văn hóa được hiểu  là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc .

Ở Việt Nam, từ năm 1943 khi nói về văn hóa, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm cho rằng “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [2]. Đây có thể coi là một định nghĩa khá hoàn chỉnh và sát hợp với thực tế, đồng thời bao quát được cả những quan điểm hiện đại sau này về văn hóa.

Như vậy văn hóa là tất cả những gì do một cộng đồng (dân tộc) sáng tạo nên trong quá trình lịch sử, nhưng không đồng nhất với lịch sử. Văn hóa là tổng hòa những giá trị đã được kết tinh lại, trở thành bản sắc, là nền tảng tinh thần của một cộng đồng, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Đó là những giá trị trường tồn. Nếu như chủng tộc (race) hay giống nòi theo cách nói của người Việt là gene sinh học của một cộng đồng thì văn hóa có thể coi là gene xã hội của cộng đồng ấy.

Văn hóa là tạo nên ứng xử cộng đồng, phản ứng cộng hưởng tập thể trước một hiện tượng hoặc sự việc nào đó. Văn hóa chứa đựng cả những sở trường và sở đoản của một cộng đồng nên khó có thể đạt được kỳ vọng (như thường được nghe) là phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực…mà phải theo một triết lý phù hợp với thực tiễn khai thác tất cả những gì mình có để phục vụ phát triển.

Trên thế giới đã có không ít quốc gia thành công trong sự phát triển đất nước khi biết dựa trên nền tảng văn hóa. Kinh nghiệm Nhật Bản rất đáng đưa ra để phân tích. Vào cuối thế kỷ XIX, trước thực trạng đất nước lạc hậu,  những nhà cải cách tiên phong trong giai đoạn đầu đã đưa ra chủ trương “thoát Á nhập Âu” với tâm trạng đầy mặc cảm về sự tụt hậu của dân tộc Nhật. Họ coi mọi thứ của châu Âu đều là chuẩn mực của văn minh. Thậm chí ông Bộ trưởng Giáo dục đầu tiên thời Minh Trị là Mori Arinori đã đưa ra đề xuất táo bạo là bãi bỏ tiếng Nhật và chuyển sang dùng tiếng Anh trong tất cả các trường học với suy nghĩ chỉ có giỏi tiếng Anh người Nhật mới có thể đuổi kịp châu Âu [3]. Chủ trương này đã làm dấy lên làn sóng tranh luận quyết liệt trong giới trí thức và phản ứng dữ dội của xã hội. Kết cục sau đó là sự thắng thế của quan điểm “Hòa thần, Dương khí” (tinh thần Nhật Bản, phương tiện châu Âu) của Fukuzawa Yukichi [4] đã trở thành đã trở tư tưởng chủ đạo cho cuộc cải cách Minh Trị, đưa nước Nhật lên hàng cường quốc trên thế giới vào đầu thế kỷ XX. Văn hóa chính là nền tảng cho bước nhảy ngoạn mục này. Chính vì vậy mà mặc dù là nước hiện đại, Nhật Bản là quốc gia đặc biệt coi trọng văn hóa truyền thống.

Bài học thứ hai cũng đến từ châu Á. Đó là “Kỳ tích sông Hàn” – một cụm từ khái quát sự biến đổi thần kỳ Hàn Quốc từ một đất nước nghèo đói, bị chiến tranh tàn phá nặng nề biến thành một “con rồng” và đến giữa thập niên 90 trở thành một nước nằm trong khối OECD (Organization for Economic Cooperation and Development), tổ chức các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Người Hàn đã có một khẩu hiệu nổi tiếng: Hãy biến tất cả những gì người Hàn có thành lợi thế cạnh tranh quốc tế. Người Hàn luôn coi văn hóa là sức mạnh của họ trong thời đại toàn cầu hóa.

Như vậy, từ lý luận đến kinh nghiệm thực tế có thể thấy chỉ có thể phát triển bền vững khi đứng vững trên nền tảng văn hóa, hay nói cách khác là phải biết mình, biết người và khai thác tối đa những gì mình có mới có áp dụng tối đa những gì mình học được và vươn lên lên so đọ với thế giới. Để có thể đưa ra những đề xuất giải pháp khai thác các giá trị văn hóa Việt Nam phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, trước tiên cần làm rõ những nội dung cơ bản của văn hóa Việt Nam.

Nội dung của văn hóa Việt Nam

Có thể coi văn hóa là căn cước của một cộng đồng, nhưng bao giờ cũng có hai hợp phần nội sinh và ngoại sinh (tiếp thu được từ bên ngoài, biến thành cái của mình, trong văn hóa học thường gọi là quá trình tiếp biến). Trước hết thử xét đến những hợp phần nội sinh của văn hóa Việt Nam. Văn hóa thực chất là những sáng tạo của con người trong quá trình tương tác với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, môi trường xã hội và hoàn cảnh lịch sử.

Biểu hiện rõ nhất của những nội dung văn hóa chịu tác động của quá trình ứng phó (counteraction) và tương tác (interaction) với điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái là hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển của nông nghiệp. Tiềm năng dồi dào của đất và nước (độ phì của đất cao, diện tích canh tác lớn và có điều kiện phát triển nhờ lượng sa bồi khá lớn của hệ thống sông ngòi dày đặc), cùng với khí hậu thuận lợi… không khó lý giải vì sao người Việt lựa chọn nông nghiệp làm nghề sống chính của mình suốt mấy nghìn năm và đã từng tạo dựng nên một nền văn minh nông nghiệp có thời toả sáng khắp khu vực Đông Nam Á. Nhưng cũng vì thế mà người Việt bị trói chặt vào kinh tế nông nghiệp. Cho đến nay ba hằng số lớn của lịch sử dân tộc: kinh tế nông nghiệp, cư dân nông dân, xã hội nông thôn vẫn là những chỉ số quan trọng để nhận diện người Việt Nam. Do đó, những căn tính nông dân, những đặc trưng của một xã hội nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mọi giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam.

Trên một phương diện khác, môi trường sông - nước đã tạo nên một nền văn hóa sông nước. Tác động của môi trường sông - nước mạnh đến mức người Việt đồng nhất khái niệm quốc gia với NƯỚC. Cũng từ hoàn cảnh sống trong môi trường sông nước, người Việt có khả năng đối phó rất linh hoạt với mọi tình thế và có lối ứng xử mềm dẻo phù hợp với hoàn cảnh. Điều này lý giải vì sao là cư dân nông nghiệp mà người Việt không thủ cựu mà rất dễ thích ứng.  Có thể coi đây là một đặc trưng nổi trội của văn hóa và con người Việt Nam.

Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên Việt Nam luôn đặt ra cho con người muôn vàn những thử thách hiểm nghèo, hay gây ra những tai biến bất thường, nhất là các hiện tượng mưa theo mùa tạo ra lũ lụt, bão tố, ẩm thấp gây sâu bệnh tàn hại mùa màng... Cuộc đấu tranh vật lộn với thiên nhiên đã tạo nên truyền thống không chùn bước trước khó khăn và biết cố kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh để vượt qua thử thách.

Một trong đặc điểm nổi bật của Việt Nam là nằm ở vị trí giao tiếp có tầm chiến lược cực kì quan trọng, thường xuyên chịu ảnh hưởng của những tác tác động bới những toan tính từ bên ngoài. Chính vì vậy mà Việt Nam luôn luôn bị xô đập bởi các biến cố khu vực và của thế giới. Tính cách dễ thích ứng và nhạy cảm phần nhiều được hình thành do tác động của yếu tố này. Điều này cũng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Do nằm ở vị trí giao tiếp và sự phân bố địa lí, từ lâu Việt Nam đã là một quốc gia đa sắc  sắc tộc với những đặc trưng văn hoá khác nhau. Mặc dù vậy, người Việt (Kinh) luôn luôn đóng vai trò chủ thể vì số lượng đông và trình độ phát triển kinh tế xã hội cao hơn hẳn so với các cộng đồng dân tộc anh em khác. Đặc điểm trên đã tạo nên truyền thống đa dạng trong văn hoá nhưng hướng tâm vào văn hoá chủ thể - văn hoá Việt.

Văn hóa, tính cách của con người Việt Nam còn được hình thành do tác động của quá trình lao động sản xuất. Như đã nói ở trên, hoạt động lao động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước, một nghề rất cần tới sức mạnh tập thể. Làng, một loại hình công xã nông thôn là đơn vị tụ cư phổ biến của cộng đồng chủ thể (người Kinh). Sau luỹ tre làng hàng loạt những sáng tạo văn hóa mang tính cộng đồng đã hình thành. Mặt tích cực của nó là đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong lúc gặp khó khăn, hoạn nạn. Chứng cứ lịch sử cho thấy người Việt đã khai phá ruộng đất theo phương thức tập thể và vì vậy, đất đai canh tác trong suốt một thời gian lịch sử rất dài thuộc về sở hữu công (cộng đồng). Đoàn kết, tương trợ nhau và nguyên tắc cá nhân tồn tại trong sự phụ thuộc vào cộng đồng dần trở thành một tập tục có cơ chế kinh tế - xã hội bảo đảm.

Trong văn hóa cộng đồng Việt Nam hầu như ít thấy quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với các cộng mà chủ yếu là quan hệ trách nhiệm giữa các cấp cộng đồng. Một gia đình (hay rộng ra là một gia tộc) có trách nhiệm với xóm làng, làng có trách nhiệm với nước và ngược lại. Do đó, suy cho cùng, một cá nhân bình thường chỉ có vai trò trong khuôn khổ gia đình họ mà thôi, còn ra đến cộng đồng lớn, cá nhân luôn luôn "không là cái gì". Vì thế, họ nói đến truyền thống tương trợ, giúp đỡ nhau cũng thường thể hiện ở cấp gia đình trở lên. Cùng với đặc điểm này, tính chất của cộng đồng trong văn hóa Việt đã góp phần làm nên đặc trưng của văn hóa tâm linh. Nhiều tín ngưỡng của người Việt liên quan đến gia đình, dòng tộc mà tiêu biểu nhất là truyền thống thờ cúng tổ tiên. Không phải ngẫu nhiên mà Paul Ory, một học giả Pháp đã đưa ra nhận xét rằng đối với người dân An Nam, đạo thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng truyền thống nhất và thiêng liêng nhất [5]. Thờ vua Hùng là một hình thức thờ cúng tổ tiên ở tầm quốc gia.

Gắn liền với văn hóa cộng đồng là truyền thống dân chủ làng xã. Biểu hiện rõ nét là việc bầu chọn ra những người đại diện, tham gia vào bộ máy quản lí làng xã. Trong cơ chế này,"luật pháp" của làng là những phong tục tập quán, tục lệ được hình thành trong một quá trình lâu dài (lệ làng). Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng dân chủ làng xã nói tới ở đây là một hình thức dân chủ sơ khai. Thực chất của thiết chế dân chủ này là một hình thức tự quản nên các thành viên giám sát lẫn nhau trở thành một yêu cầu tự nhiên và là biện pháp quan trọng để duy trì kỉ cương. Phương thức này chứa đựng tiềm tàng hai khuynh hướng cực đoan. Khuynh hướng thứ nhất là tạo ra tâm lí giám sát thái quá biến thành sự can thiệp của tập thể vào quá trình phát triển của cá thể, nhất là trong hoàn cảnh chủ nghĩa bình quân chi phối mọi quan hệ trong làng xã. Khuynh hướng thứ hai là khi dư luận không còn được coi trọng thì những hành vi tự do, tuỳ tiện (vô chính phủ) rất dễ nảy sinh. Chính trong cuốn sách đã dẫn, Paul Ory đã ví làng xã Việt nam như Protée, một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp có tài biến hóa thành bất cứ thứ gì [6].

Di tồn văn hóa dưới dạng tập quán của sản xuất nông nghiệp, một loại hình lao động tương đối tự do, còn được biểu hiện ở tác phong tuỳ tiện, kỉ luật không chặt chẽ. Sản xuất nông nghiệp truyền thống không cần tới những tính toán chuẩn xác và sự hiệp đồng thật chặt chẽ. Cho đến nay dù đã có thay đổi rất nhiều, nhưng ảnh hưởng của lối sống nông nghiệp còn rất đậm nét trong mọi mặt của đời sống xã hội. Văn hóa cộng đồng làng xã còn là mảnh đất màu mỡ dung dưỡng tâm lí bình quân chủ nghĩa và một số hạn chế cố hữu khác.

Thói quen hay tập quán (habit), một biểu hiện khác của dặc trưng văn hóa Việt được hình thành do tác động hằng xuyên của hoàn cảnh lịch sử. Vị trí địa lí chiến lược của Việt Nam vừa tạo điều kiện để Việt Nam có cơ hội giáo lưu, tiếp biến văn hóa, nhưng cũng đặt ra những thử thách hiểm nghèo. Trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu với những kẻ thù lớn và mạnh hơn mình rất nhiều. Hoàn cảnh này đã tạo nên phẩm chất anh dũng quật cường, mưu trí sáng tạo, hun đúc cho mỗi người dân lòng yêu nước nồng nàn, ý thức tự tôn dân tộc và tinh thần bất khuất, tự lập, tự cường rất cao. Một trong những biểu hiện trong văn hóa truyền thống dễ thấy là tục sùng bái và thờ cúng anh hùng. Hầu như ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam cũng có thể tìm thấy những đền thờ các nhân vật lịch sử có công lao với dân tộc với triết lý sinh vi danh tường, tử vi thần (sống là danh tướng đánh giặc thì khi chết sẽ được tôn làm thần). Cũng do tác động của truyền thống chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, ở Việt Nam đã hình thành nên truyền thống thượng võ - một truyền thống khá đặc sắc của dân tộc.

Văn hóa có một thuộc tính phổ quát là tiếp biến (Acculturation). Theo đó, quá trình giao lưu, lan truyền ảnh hưởng, tiếp thu, thẩm thấu… các giá trị giữa các nền văn hóa diễn ra thường xuyên liên tục và trên mọi bình diện. Người ta thường nói văn hóa không có biên giới chính là trên ý nghĩa này. Xét từ góc độ địa-văn hóa, Việt Nam là một quốc gia có vị trí giao tiếp, quá trình tiếp biến diễn ra có phần mạnh mẽ hơn so với nhiều quốc gia, khu vực khác. Chính do vậy mà các yếu tố ngoại sinh là một hợp phần hết sức quan trọng trong văn hóa Việt Nam.

Có quan hệ giao lưu từ lâu đời trong khu vực, cơ tầng văn hóa truyền thống Việt Nam rất gần gũi với các nước Đông Nam Á với một mẫu số chung cấu trúc tổ chức xã hội tương đối lỏng và cởi mở. Điều này khiến cho tính chất dân chủ làng xã có điều kiện để tồn tại và phát triển. Cũng bởi đặc điểm này mà Việt Nam là một dân tộc dễ thích nghi và hội nhập.

Trong quá trình giao lưu, tiếp biến, Việt Nam đã chịu ảnh hưởng không nhỏ những tác đông của hai nền văn minh lớn của nhân loại là Trung Hoa và Ấn Độ. Dưới ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, nhiều yếu tố văn hoá mới đã được du nhập vào Việt Nam, trong đó ảnh hưởng rõ nét nhất là Nho giáo. Những chuẩn mực Nho giáo được hoà trộn và điều chỉnh bởi các giá trị vốn có của người Việt đã tạo nên một số truyền thống, trong đó hiếu học, trọng học là một nội dung quan trọng. Trong các phẩm chất được đề cao, đối với người Việt Nam, đạo hiếu là quan trọng nhất. Cũng do ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, ở Việt Nam đã hình thành truyền thống trọng tước, thích làm quan và coi quan tước là một thang bậc đánh giá sự tiến bộ của một cá nhân.

Đối với văn minh ấn Độ, ảnh hưởng đáng kể nhất của đối với Việt Nam là Phật giáo. Tuy nhiên, Phật giáo Việt Nam khác rất xa Phật giáo Ấn Độ. Sự truyền bá rộng rãi tư tưởng Phật giáo cùng với những tính cách của cư dân bản địa đã tạo nên truyền thống nhân ái, vị tha và rộng lượng của người Việt.

Trong thời kỳ cận-hiện đại, trong bối cảnh đầy biến động của lịch sử, Việt Nam đã có cơ hội cọ xát với văn hóa Âu-Mỹ. Kết quả là nền văn hóa vốn đã hết sức phong phú còn tiếp nhận thêm nhiều giá trị mới. Có thể nói Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa đa dạng vào bậc nhất trên thế giới. Đây chính là một trong những lợi thế của sức mạnh mềm Việt Nam trong kỷ nguyên hội nhập.

Những nội dung được trình bày trên đây chưa thể coi là đầy đủ, bởi vì đi sâu vào nhưng tác nhân tạo nên văn hóa Việt Nam còn phải nghiên cứu kĩ từng mặt, từng lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như phải xem xét kĩ từng loại hình và cấp độ của tổ chức cộng đồng. Trên đây mới chỉ là những nét khái quát chủ yếu về những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam, được hình thành bởi những tác động cơ bản và thường xuyên nhất. Những vấn đề nêu ra ở đây cũng không nhằm nhằm đánh giá, nhận định những mặt tích cực hoặc tiêu cực của văn hóa, mà chỉ nêu ra một số luận giải về nguồn gốc hình thành và nội dung chủ yếu của văn hóa Việt Nam mà thôi.

Từ những “chất liệu gốc” trên đây, người Việt Nam đã sáng tạo nên hàng loạt các giá trị vật chất và tinh thần, để lại cho hôm nay và mai sau vô vàn những di sản dưới dạng vật thể và phi vật thể. Đó chính là nguồn tài nguyên vô tận và vô giá cần được khai thác để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ đất nước đang chủ động hội nhập quốc tế.

Một số giải pháp

Để có thể biến văn hoá thành nguồn lực, khai thác các di sản như những tài nguyên điều quan trọng đầu tiên là phải đổi mới tư duy nhận thức một cách căn bản. Trước hết phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm văn hóa không chỉ là một lĩnh vực hoạt động thuộc phạm vi quản lý của ngành văn hóa mà là nền tảng tinh thần của xã hội, là hồn cốt, khí chất của dân tộc.

Khi ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, Trung ương đã nhận ra tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa, nhưng trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chính vì vậy mà khi đánh giá, Bộ Chính trị đã đưa ra những kết luận hết sức quan trọng, theo đó việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Môi trường văn hóa có những mặt chưa thực sự lành mạnh. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao. Tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, văn hóa đặc trưng của một số dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một dần. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với thực tiễn sáng tác. Một số chủ trương, quan điểm nêu trong Nghị quyết chậm được thể chế; chưa có những chiến lược, giải pháp đồng bộ để phát triển và nâng cao năng lực hội nhập quốc tế về văn hóa. Chưa giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong quản lý văn hóa. Hệ thống thiết chế văn hóa chậm chuyển đổi sang phương thức tự chủ, xã hội hóa. Việc chỉ đạo phát triển công nghiệp văn hóa còn chậm. Các đặc trưng cơ bản của nền văn hóa là "dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học" cùng quan điểm xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được quán triệt thường xuyên; có dấu hiệu bị buông lỏng trong cả ba môi trường: Gia đình, nhà trường và xã hội.

Bộ Chính trị cũng chỉ ra những hạn chế trên đây do nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và một bộ phận nhân dân nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người đối với phát triển bền vững đất nước. Vị trí, vai trò của văn hóa chưa thực sự được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý chưa thực sự đổi mới, nhất là trong việc xây dựng, đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. Việc thực hiện nêu gương của cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn hình thức, chưa tạo được sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa có mặt còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Chưa phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp, sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ của các chủ thể văn hóa, khích lệ, động viên tính tích cực xã hội của nhân dân, nhất là đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức trong tổ chức thực hiện Nghị quyết. Công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để hình thành cơ sở lý luận, đúc kết hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam còn chậm, lúng túng, bị động [7].

Cùng với việc đổi mới tư duy nâng cao nhân cao nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa, cũng phải đánh giá đúng và thấy hết những khó khăn khi khai thác các nguồn lực văn hóa [8].

Trước hết đó là những trở ngại trước những thói quen, tập tính và hạn chế của một cư dân nông nghiệp khi bước vào thời kì công nghiệp hoá và hiện đại hoá mà một trong những nhược điểm lớn, gây rất nhiều hậu quả tai hại là không có thói quen nhìn xa, là tâm lí "ăn xổi". Suy cho cùng, thói quen này cũng là biểu hiện của những tàn dư lịch sử, nằm trong di tồn văn hóa. Nếu không có những nhận thức thật sâu sắc để có những biện pháp khắc phục thật hữu hiệu thì đây là một cản trở lớn cho sự phát triển. Trong thời đại ngày nay, người ta trù liệu trước cho sự phát triển ít nhất cũng phải tới vài ba chục  năm.

Một trong những hạn chế lớn khác của di tồn văn hóa có hại cho sự phát triển là tâm lí bình quân cào bằng. Đây là sản phẩm của cơ cấu kinh tế - xã hội nông nghiệp - công xã. Trong lịch sử, sự bình đẳng làng xã, sự phân hoá xã hội không mấy sâu sắc đã từng đóng vai trò quan trọng cho sự cố kết/ đoàn kết cộng đồng. quan niệm “dàn hàng ngang mà tiến” hay “xấu đều hơn tốt lỏi” đôi khi là những yếu tố cần thiết để điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, mặt trái của nó chính là tâm lí ghét sự vượt trội - một biểu hiện của tâm lí bình quân. Trong phát triển nói chung, đây là yếu tố có sức cản vô cùng mạnh mẽ…

Một trong những điều quyết định thành công trong sự nghiệp phát triển đất nước đi tới phồn vinh là phải khơi dậy khát vọng của cả dân tộc, trong đó đặc biệt là giới trẻ như tinh thần Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII đã chỉ ra. Giáo dục văn hóa, lịch sử cho mọi tầng lớp từ lãnh đạo đến nhân dân, nhất là tầng lớp thành thiếu niên cần được coi như một nhiệm vụ mang tầm chiến lược. Khát vọng sẽ dẫn tới tự tin và có thể biến tất cả những gì mình có thành lợi thế, thành sức mạnh.

Trong thời kỳ hội nhập, văn hóa không chỉ là tài sản để cất giữ, để tự hào mà phải được coi là là tài nguyên để khai thác, là sức mạnh mềm của đất nước để có thể mở rộng hợp tác và cạnh tranh sòng phẳng trên trường quốc tế. Trên ý ngĩa nàyđẩy mạnh ngoại giao văn hóa không chỉ dừng ở những hoạt động giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra bên ngoài mà phải có những tính toán dài hơi và hiệu quả, trong đó phải đặc biệt coi trọng thế mạnh của con người Việt Nam.

Bên cạnh việc phát huy sức mạnh mềm, việc làm làm sống dậy các di sản, di tích cũng là một giải pháp quan trọng, cần được đặc biệt quan tâm. Việt Nam là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời và rực rỡ, có truyền truyền thống dựng và giữ nước vô cùng vẻ vang. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một truyền thống hào hùng và gắn với nó là vô vàn những di tích quý giá. Tuy nhiên cho đến nay, những di sản này chưa được khai thác có hiệu quả. Phần nhiều mới chỉ được giữ gìn theo cách bảo quản và đôi khi được tôn tạo bàng những khoản kinh phí rất hạn hạn chế. Thế giới hiện đang có rất nhiều kinh nghiệm làm sống dậy di sản văn hóa, khai thác di sản như những tài nguyên góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước [9].

Như vậy, nói đến văn hóa Việt Nam trước hết phải nói tới nền tảng tinh thần là ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập, tự cường. Đây là nội dung cực kì quan trọng của văn hóa Việt Nam và là yếu tố cấu thành phẩm chất của con người Việt Nam. Nền tảng này đã được thể hiện rõ rệt trong những lần Việt Nam phải đối phó với hoạ xâm lăng từ bên ngoài. Tinh thần dân tộc cao sẽ là động lực và sức mạnh thúc đẩy một dân tộc vươn tới đỉnh cao. Vấn đề đang đặt ra hiện nay cho Việt Nam là làm thế nào để động viên được tới các mức cao nhất sức mạnh này trong công cuộc xây dựng đất nước và cạnh tranh quốc tế. Thêm vào đó trong văn hóa Việt Nam, truyền thống hiếu học và khả năng trí tuệ của người Việt đã và đang trở thành một yếu tố bảo đảm cho sự phát triển với tốc độ cao của đất nước và trở thành một thế mạnh trong cạnh tranh quốc tế trong tương lai.

Một trong những nét đặc sắc đồng thời cũng là thế mạnh con người Việt Nam là tính cách mềm dẻo, cởi mở và dễ hội nhập. Đây là một yếu tố hết sức thuận lợi trong hoàn cảnh ngày nay, khi mà thế giới ngày càng phát triển theo xu thế hội nhập và chu kì thay đổi công nghệ ngày càng có xu hướng rút ngắn. Trong khi đó văn hóa của chúng ta đa dạng, phong phú với bản sắc hết sức độc đáo. Đó là lợi thế lớn cho Việt Nam trong thời kỳ chủ động hội nhập.

Chúng ta đã nói nhiều tới sự phát triển chậm trễ, những món "nợ lịch sử" mà sớm muộn chúng ta phải trả (như công nghiệp hoá chẳng hạn). Nhưng xét về nhiều phương diện, trong hoàn cảnh thế giới ngày nay, sự chậm trễ đó đang tạo cho chúng ta một lợi thế: lợi thế của người đi sau. Lợi thế này được tạo ra không chỉ từ việc xây dựng chiến lược đi tắt đón đầu về công nghệ hiện đại mà còn có thể lĩnh hội một cách đầy đủ kinh nghiệm phát triển của các nước đi trước để học tập. Nhưng điều có nghĩa quan trọng hơn trên phương diện bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống là chúng ta vẫn còn kịp, nếu như có được sự nhận thức sáng suốt và đầy đủ về tầm quan trọng của việc xây dựng một nền văn hoá mang bản sắc dân tộc, xứng với tầm vóc lịch sử của dân tộc và biến tất cả những gì mình có thành lợi thế trong cạnh tranh quốc tế. Rất may là thực tế chứng minh là chúng ta đang có điều đó. Hội nghị văn hóa toàn quốc lần này chính là một minh chứng hùng hồn về nhận thức có tầm chiến lược của Đảng về văn hóa. Chắc chắn với sức mạnh của văn hóa Việt Nam, tố chất đặc biệt của con người Việt nam chúng ta sẽ thực hiện được khát vọng của cả dân tộc, sớm đưa đất nước vào hàng ngũ những quốc phát triển trên thế giới để có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu”, hiện thực hóa ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu mới giành lại được độc lập.

GS.TSKH Vũ Minh Giang

Đại học Quốc gia Hà Nội

----------------------------------------

[1] Edward Burnett Tylor(2014): Primitive Culture V2: Researches Into the Development of Mythology, Philosophy, Religion, Language, Art and Custom. Publisher Literary Licensing, London, UK; Pitirim Pitirim A. Sorokin (1985): Social and Cultural Dynamics , Oxford, UK; Nguyễn Như Ý chủ biên  (1998): Đại từ điển tiếng Việt , Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin…

[2] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật tr. 458.

[3] Hall, Ivan Parker (1973): Mori Arinori. Harvard University Press, Massachusetts, USA

[4]  Fukuzawa Yukichi (1835-1901), ở Việt Nam ông còn được biết đến với tên gọi Phúc Trạch Dụ Cát, từng sáng lập trường đại học tư thục Keio (Khánh ứng nghĩa thục) nổi tiêng. Háng trăm lưu học sinh Việt Nam được đưa sang Nhật trong phong trào Đông Du đầu thế kỷ XX từng là sinh viên trường này. Ghi nhận công lao của ông với đất nước, chân dung của ông được vẽ trên đồng tiền có mệnh giá lớn nhất của Nhật Bản (1 vạn yên).

[5] Paul Ory (2013): La commune annamite au Tonkin. Maison d'édition Broché, Paris.

[6] Protée (Proteus): Thần biển với hình tượng nửa người nửa rắn, tay cầm đinh ba.

[7]  Kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33 xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Báo điện tử của Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam  ngày 09/06/2020.

[8] Vũ Minh Giang (2009): Lịch sử Việt Nam: Truyền thống và hiện đại. NXB Giáo dục

[9]  Italia, Trung Quốc, Pháp và gần Việt Nam như Thái Lan, Campuchia…có rất nhiều kinh nghiệm cho Việt Nam tham khảo.

...