26/12/2024 lúc 19:07 (GMT+7)
Breaking News

Vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Trong bối cảnh mới hiện nay, khi đất nước ta đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng, nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; rút ngắn khoảng cách tụt hậu, đồng thời duy trì tăng trưởng nhanh, bền vững; là động lực chủ yếu tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức; là điều kiện quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định là một trong ba đột phá chiến lược cần ưu tiên phát triển, nhất là cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Nguồn nhân lực chất lượng cao ở đây là lực lượng gồm những người lao động có sức khỏe thể chất, tinh thần tốt; có trình độ tay nghề cao, khả năng lao động giỏi và kỹ năng chuyên môn tốt trong nghề; có những phẩm chất xã hội tốt đẹp, như tinh thần nhân văn, tập thể, hòa nhập, thích nghi làm việc trong môi trường đa văn hóa... Những tiêu chí đó là rất cần thiết, nhưng để có được lại không đơn giản, cần một sự đầu tư rất lớn về nhiều mặt, trong đó giáo dục đào tạo là nòng cốt.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta vẫn còn một số mặt hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Hoạt động đào tạo ở nhiều nơi còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng xã hội, kỹ năng sống và khả năng tự học, kỹ năng sáng tạo. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo vẫn còn lớn, chất lượng đào tạo chưa cao, cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý. Chúng ta vẫn đang thiếu lao động trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ cao, phục vụ phát triển số, đồng thời dư thừa lao động thủ công; thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý, quản trị doanh nghiệp giỏi và đội ngũ chuyên gia trong các ngành kinh tế, thiếu kỹ thuật, công nhân lành nghề…

Thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực ngành bán dẫn Việt Nam. Ảnh: TL

Giải pháp tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao

Theo các chuyên gia, để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, cần phải thay đổi tư duy và nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học, trường đào tạo nghề. Thị trường lao động đang rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao, với trình độ tay nghề và kỹ năng cao của người lao động. Bên cạnh đó, khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng thì những tiêu chuẩn về lao động cũng phải cao hơn. Trước mắt là phải đạt chuẩn nghề nghiệp mang tầm quốc tế để có thể dễ dàng dịch chuyển và đủ sức cạnh tranh với lao động các nước.

Mặt khác, để công tác đào tạo đáp ứng được yêu cầu, cần có sự đồng bộ từ phía Chính phủ, các cơ sở đào tạo, cho đến người học. Các cơ sở đào tạo cần có sự tái cấu trúc toàn bộ về hệ thống đào tạo, với 3 mắt xích chủ yếu: Người thầy; hệ thống giáo trình cập nhật mới có sở hữu trí tuệ, phát triển thương hiệu, phòng vệ thương mại; người học phải gắn với cuộc cách mạng công nghệ 4.0.

Từ góc độ chủ trương, chính sách, để phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình và Tổ quốc; đồng thời, phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Muốn vậy, cần thực hiện đúng tinh thần theo Đại hội III của Đảng, bao gồm: Một là, đổi mới chế độ tuyển dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Hai là, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Ba là, chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động, kết hợp chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức; hình thành đội ngũ lao động lành nghề, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng. Bốn là, xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách dân số và phát triển, tận dụng, phát huy lợi thế thời kỳ dân số vàng gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của nhân dân về nhà ở, giáo dục, y tế, việc làm. Thực hiện tốt “Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 - 2030”.

2. Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Để thực hiện được giải pháp này, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: Một là, nghiên cứu hoàn thiện một hệ thống sách giáo khoa thống nhất cả nước và chế độ thi cử ở các cấp học cho phù hợp yêu cầu thực tiễn. Hai là, chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Ba là, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; đa dạng hóa các hình thức học tập. Bốn là, phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa nội dung kỹ năng số, ngoại ngữ tối thiểu vào chương trình giáo dục phổ thông; chú trọng giáo dục kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Năm là, sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Sáu là, tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo bằng nhiều nguồn khác nhau, trong đó đầu tư từ ngân sách nhà nước cần tăng lên, đồng thời huy động nhiều hơn, tốt hơn sức dân thông qua đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập. Bảy là, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới; hình thành mô hình hợp tác công - tư trong đào tạo đại học. Sắp xếp, quy hoạch lại các trường đại học, cao đẳng.

3. Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, theo yêu cầu Đại hội III đã đề ra: Một là, chú trọng phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị; đồng thời, “Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Hai là, cùng với rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ gắn với đổi mới toàn diện chính sách nhân lực khoa học và công nghệ, thực hiện tốt chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là chuyên gia đầu ngành, nhân tài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Tăng cường đầu tư phát triển khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường trên cơ sở huy động hợp lý nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và các cá nhân. Hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Ba là, đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế tài chính, nhằm giải phóng năng lực sáng tạo của nhà khoa học, đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, đời sống. Tăng cường liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp. Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, nhất là khoa học và công nghệ cao trong điều kiện hội nhập quốc tế. Đa dạng hóa đối tác, lựa chọn đối tác chiến lược là các quốc gia có nền khoa học và công nghệ tiên tiến; gắn hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội(18). Đồng thời, phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người Việt Nam, thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài.

4. Xác lập các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động phù hợp với sự phát triển của thị trường, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi của giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động. Có chính sách lương, thưởng phù hợp, đặc biệt là đối với nhân tài, các chuyên gia đầu ngành, các kỹ thuật viên có tay nghề cao./.

Ths Hoàng Đình Thông

...