24/02/2025 lúc 16:37 (GMT+7)
Breaking News

Tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển trong giai đoạn mới

Trong ba đột phá chiến lược phát triển bền vững đất nước được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển tiếp tục được đặt ở vị trí đầu tiên.

Trên cơ sở tiếp tục khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu cần đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế phát triển, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân; nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, đẩy mạnh cải cách thể chế để góp phần thực hiện tốt các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ đề ra nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Ảnh minh họa - VNHN

Trong ba đột phá chiến lược phát triển bền vững đất nước được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển tiếp tục được đặt ở vị trí đầu tiên. Trong đó, lấy cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (KTTT ĐHXHCN) đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước.

Hoàn thiện thể chế từ góc độ lý luận

Để xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhằm tạo lập khung khổ pháp lý thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản. Đó là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật là yêu cầu tất yếu, khách quan trong quá trình phát triển đất nước.

Trong quá trình thực hiện các kế hoạch phát triển, mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và tính định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là mối quan hệ “kết hợp”, “dung hợp” một cách đơn giản, chủ quan duy ý chí, máy móc các giá trị kinh tế (thị trường) và các giá trị xã hội (định hướng XHCN). Mà là mối quan hệ hữu cơ tạo nên một thể chế - cơ chế mới, với bản chất và động lực mới cho sự phát triển khách quan.

Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải chỉ thể hiện ở phương diện chính sách xã hội, lại càng không phải chỉ là sự bao cấp xã hội, mà tính định hướng ấy phải được thể hiện đồng bộ ở ba phương diện: xây dựng cơ chế phát triển để giải phóng triệt để sức sản xuất nhiều thành phần; hướng tới mục tiêu từng bước nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, dân giàu, nước mạnh; thực hiện tốt các mục tiêu về phát triển con người, các chính sách xã hội, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đảm bảo được sự phát triển mạnh mẽ để mang lại được lợi ích thiết thực mọi mặt ngày càng cao cho nhân dân, để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn và phát triển cao hơn.

Trong các Văn kiện Đại hội, Đảng ta luôn coi vấn đề hoàn thiện thể chế KTTT ĐHXHCN là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước; xác định thể chế KTTT đồng bộ và hiện đại là một nền tảng cơ bản để thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế sang phát triển theo chiều sâu, nhanh - bền vững.

Kết quả về phát triển thể chế KTTT ĐHXHCN trong thời gian qua

1. Nhận thức về nền kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có những bước tiến quan trọng. Điều này được thể hiện rõ qua nhận thức, quan điểm được nêu trong Văn kiện các Đại hội của Đảng và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1986 đến nay; được thể hiện ở nhận thức, tư duy của hệ thống quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương, ở tất cả các chủ thể sản xuất kinh doanh và trong toàn xã hội.

2. Khung khổ pháp luật về KTTT, thể chế KTTT được xây dựng và hoàn thiện ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu vận động của thực tiễn phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống pháp luật gồm Hiến pháp, cùng hàng trăm bộ luật, đạo luật quy định những vấn đề cơ bản của thể chế kinh tế thị trường, gồm chế độ sở hữu, quyền tài sản, gia nhập thị trường và các loại hình tổ chức kinh doanh, hợp đồng, giao kết hợp đồng và giải quyết tranh chấp thương mại, hoạt động kinh doanh và cạnh tranh thị trường và rút khỏi thị trường; quản lý nhà nước… tạo thành khung pháp lý khá đầy đủ trên các lĩnh vực để quản lý và vận hành nền kinh tế.

3. Thể chế về chế độ sở hữu liên tục phát triển và ngày càng phù hợp hơn với kinh tế thị trường. Nền kinh tế dựa trên nền tảng của chế độ đa sở hữu; các hình thức sở hữu phong phú, đa dạng đã hình thành, phát triển. Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản đã quy định khá đầy đủ các quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu. Tư nhân có quyền sở hữu không hạn chế đối với tài sản nói chung và tư liệu sản xuất nói riêng. Tài sản thuộc sở hữu tư nhân không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Pháp luật khuyến khích phát triển sở hữu hỗn hợp, đẩy mạnh hợp tác công - tư.

4. Các chủ thể sản xuất kinh doanh, các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp đang ngày càng phát triển đa dạng. Số lượng doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế và loại hình doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh (SXKD) liên tục tăng, bình quân giai đoạn 2016-2017 cả nước có 532.738 doanh nghiệp, tăng 41% so với bình quân giai đoạn 2011-2015. Hiện nay có hơn 700 nghìn doanh nghiệp (cả doanh nghiệp Việt và doanh nghiệp FDI) và hàng triệu hộ kinh doanh cá thể có đăng ký, đang hoạt động. Kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nông nghiệp tiếp tục có bước phát triển tích cực hơn. Trong đó khoảng hơn 30% số HTX hoạt động có hiệu quả (tập trung nhiều ở lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản).

Vị trí, vai trò của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế được xác định rõ hơn. Thể chế kinh tế mới đã trao quyền cho doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, tuân thủ luật pháp, được tự do sản xuất kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, tự chịu trách nhiệm trước luật pháp, với người tiêu dùng và xã hội. Quyền tự do kinh doanh và an toàn trong hoạt động đầu tư kinh doanh ngày càng được bảo đảm; chỉ số tự do kinh tế ngày càng được cải thiện, thủ tục đăng ký kinh doanh, thành lập doanh nghiệp đã được cải cách, từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế. Người dân và doanh nghiệp về cơ bản đã được quyền kinh doanh trong tất cả các ngành, nghề mà luật không cấm; danh mục ngành, nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện thu hẹp dần. Hàng ngàn rào cản, điều kiện kinh doanh không phù hợp đã được bãi bỏ. Chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam liên tục tăng lên qua các năm…

5. Năng lực cạnh tranh (NLCT) của nền kinh tế có những chuyển biến tích cực. Hiến pháp 2013 và các luật (Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật đất đai, Luật đấu thầu, Luật Hỗ trợ DNNVV, Luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền…), các cơ chế, chính sách mà Chính phủ ban hành đã tạo cơ sở để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao NLCT của nền kinh tế và NLCT quốc gia. Cơ chế hình thành giá cả cơ bản đã theo quy luật thị trường; kiểm soát độc quyền ngày càng được quan tâm. Cạnh tranh thị trường gia tăng nhờ đẩy mạnh tự do hóa, tháo bỏ rào cản gia nhập thị trường và rào cản đối với quyền tự do kinh doanh.

6. Trình độ phát triển của thị trường của Việt Nam đang dần được nâng lên. Các thị trường phát triển đa dạng hơn, nhất là thị trường hàng hóa và dịch vụ liên tục mở rộng về quy mô và sự hoàn thiện; sự liên thông giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Khung khổ pháp lý về tự do giao kết hợp đồng và giải quyết tranh chấp thương mại, dân sự đã được hình thành và từng bước hoàn thiện. Chỉ số thuận lợi kinh doanh được cải thiện và đây cũng là bước tiến quan trọng của Việt Nam về môi trường kinh doanh.

7. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu đã có những bước tiến tích cực. Nhìn tổng thể, tốc độ và quy mô tăng trưởng kinh tế của nước ta thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực và quốc tế. GDP bình quân cả giai đoạn 2011 - 2019 đạt 6,2%/năm, cao hơn mức trung bình của thế giới (2,95%) và của khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (4,39%); năm 2022 đạt 8,02%, cũng thuộc top cao nhất trong khu vực.

Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện và dần dịch chuyển sang chiều sâu. Xét từ góc độ đầu vào: tăng trưởng kinh tế ngày càng dựa vào năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP), giảm dần sự phụ thuộc vào tăng vốn và lao động. So với giai đoạn trước (2001-2010), đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP là 26,4% (đóng góp của vốn là 54,20%; của lao động là 19,4%); thì sang giai đoạn 2011-2015, đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP đã tăng lên, đạt 30,2 % (đóng góp của vốn là 54,3%; của lao động là 15,5%); trong 3 năm 2016-2018, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 38,4%, năm 2022 đạt khoảng 45%. Hiệu quả đầu tư được cải thiện, chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) giảm dần qua các năm. Năng suất lao động tăng lên qua các giai đoạn phát triển. Do tốc độ tăng của Việt Nam tăng lên, nên khoảng cách chênh lệch về năng suất lao động giữa Việt Nam với một số nước trong khu vực đã dần được thu hẹp.

8. Đã cơ bản bảo đảm được các cân đối lớn của nền kinh tế. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt hơn, có sự phối hợp tốt hơn với chính sách tài khoá. Mục tiêu cơ cấu lại ngân sách nhà nước đã đạt được những kết quả tích cực: Thâm hụt ngân sách giảm cả về quy mô và tỷ trọng. Chính sách tài khóa nói chung và điều hành ngân sách nhà nước nói riêng được điều hành minh bạch và rõ ràng hơn. Cán cân thương mại được cải thiện; dự trữ ngoại hối tăng lên; mức độ chống chịu của nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Cơ cấu thu ngân sách nhà nước chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng nội địa. Bảo đảm các mục tiêu về bội chi và nợ công.

9. Năng lực quản lý kinh tế của Nhà nước được nâng cao, đang chuyển dần từ nhà nước sở hữu và kiểm soát sang nhà nước kiến tạo, điều tiết và phục vụ; hiệu lực quản lý nhà nước được cải thiện. Nhà nước đã chuyển từ cơ chế trực tiếp can thiệp, kiểm tra, kiểm soát thị trường sang cơ chế gián tiếp, tạo lập môi trường tự do, bình đẳng, thuận lợi cho các chủ thể hoạt động trên thị trường; tập trung hơn vào bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; hoàn thiện khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách phù hợp với nguyên tắc thị trường, các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; giảm thiểu sự can thiệp hành chính trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác cải cách hành chính đã được nỗ lực triển khai và đạt kết quả tích cực. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước từng bước được tăng cường. Bộ máy chính quyền các cấp đã từng bước được đổi mới theo hướng hiện đại và hội nhập.

Một số giải pháp cần tập trung thực hiện

Bên cạnh những kết quả đạt được, để đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế phát triển, cần thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, đối với pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị, pháp luật về cán bộ, công chức, công vụ, cần:
- Tiếp tục nghiên cứu, rà soát xây dựng thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước; kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ…; bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, kế thừa những thành quả, kinh nghiệm đã đạt được, phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, bảo đảm Chính phủ thực hiện đầy đủ vai trò, vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, sớm thiết lập nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, trong sạch, vững mạnh, thống nhất, thông suốt từ trung ương xuống địa phương, trên cơ sở phân cấp - phân quyền triệt để trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước; tổ chức tinh gọn và hợp lý. Đẩy mạnh việc áp dụng Chính phủ điện tử, hiện đại hóa nền hành chính nhà nước.
- Tiếp tục nghiên cứu, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm và phương thức hoạt động khác nhau giữa chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn, chính quyền hải đảo và các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở theo nguyên tắc nhà nước đơn nhất, quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với chính quyền các cấp.
- Tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức và xem đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và then chốt của cải cách nền hành chính; cải cách công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo hướng phân công, phân cấp rõ ràng hơn; quy định rõ hơn trách nhiệm, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ và chính quyền địa phương trong quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tiến hành rà soát, đánh giá lại hệ thống các tiêu chuẩn chức danh công chức hiện có để từ đó có những điều chỉnh cũng như ban hành mới một số chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức, viên chức. Quy định về các chức danh công chức chuyên môn của chính quyền cấp xã đã góp phần đẩy nhanh quá trình chuẩn hoá và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở.
- Nghiên cứu, xây dựng thể chế về đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức dựa trên kết quả đầu ra.
Thứ hai, đối với pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân:
- Tiếp tục thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân đã được đề ra trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Hiến pháp 2013, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và có tính đến các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Hoàn thiện thể chế về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp, cơ quan bảo vệ pháp luật theo hướng bảo đảm tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, đề cao quyền con người, quyền công dân trong thi hành pháp luật.

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế phát huy hơn nữa vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà nước trước các cơ quan dân cử đối với các vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân, quy định rõ ràng chế tài, trách nhiệm của người có thẩm quyền; tăng cường sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đối với công tác xây dựng pháp luật và giám sát thi hành pháp luật; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân để kịp thời phát hiện, xử lý các sai phạm.
- Tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và các quyền tự do, dân chủ khác, tạo thêm động lực cho cải cách, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế trong hệ thống chính trị.

Thứ ba, đối với pháp luật dân sự, kinh tế:

- Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập theo thông lệ quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút các nguồn vốn đầu tư phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế, xã hội và yêu cầu thực hiện cam kết hội nhập của Việt Nam theo hướng phát triển xanh, bền vững.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu toàn dân theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội và vai trò đại diện chủ sở hữu, tạo điều kiện cho sự tham gia một cách thực chất của người dân trong việc thực thi quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện chính sách xã hội.

- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế về thị trường, nhất là các thị trường bất động sản, vốn, lao động, khoa học công nghệ…; bảo đảm các thị trường yếu tố sản xuất đóng vai trò chủ yếu và quyết định trong huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Tiếp tục cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, loại bỏ nguy cơ mất an toàn hệ thống, tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của xã hội. Hoàn thiện thể chế thị trường bất động sản, nghiên cứu, đề xuất các quy định liên quan đến các loại hình bất động sản mới như căn hộ du lịch (condotel), biệt thự du lịch (resort villa), văn phòng kết hợp lưu trú (officetel)... Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế thị trường khoa học và công nghệ, thúc đẩy quá trình đầu tư, chuyển giao, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ trong các khu vực kinh tế. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, kế toán, điều hành chính sách tiền tệ, xử lý nợ xấu, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, quản lý ngoại hối. Hoàn thiện pháp luật thương mại nhằm thể chế hóa đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động kinh doanh thương mại. Xây dựng hiệu quả chính sách thu hút đầu tư có chọn lọc, chất lượng, tập trung vào các ngành sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, dự án sản xuất có quy mô lớn, dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng nhiều lao động.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh; bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, tạo cạnh tranh không công bằng, không bình đẳng; tạo cơ chế để môi trường kinh doanh của Việt Nam có chỉ số năng lực canh tranh toàn cầu cao. Đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, tiến tới xây dựng Chính phủ số…

Thứ tư, đối với pháp luật về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch:

- Hoàn thiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, bảo đảm phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, cải thiện căn bản chất lượng nguồn nhân lực quốc gia theo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Thực hiện đúng phương châm đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa giáo dục”. Xây dựng xã hội học tập với hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt và quản lý tốt, phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, đào tạo, đồng thời giữ vai trò chủ đạo của nhà nước trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về thị trường khoa học và công nghệ; tạo khung khổ pháp lý hỗ trợ phát triển tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ, hình thành mạng lưới tổ chức trung gian là các sàn giao dịch công nghệ; tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo trong cả nước. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về công nghệ cao để phù hợp với các quy định mới ban hành, bám sát các xu hướng công nghệ của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
- Đẩy nhanh xây dựng khung chính sách, pháp luật đối với xây dựng chính quyền điện tử hướng tới nền kinh tế số. Xây dựng, thử nghiệm, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ cao.

- Hoàn thiện pháp luật về y tế, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, theo hướng bảo đảm để công dân có đủ điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; phát triển mạnh bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân; khuyến khích phát triển cơ sở y tế ngoài công lập, bảo đảm sự bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân.
- Xây dựng thể chế hướng đến gắn vǎn hóa, thể thao, du lịch với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm nǎng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển vǎn hóa, thể thao, du lịch, đồng thời bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động vǎn hóa.

Thứ năm, đối với pháp luật về quốc phòng và an ninh:

- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quốc phòng, an ninh, thể chế hóa sâu sắc hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng, củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, nâng cao năng lực bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; về quyền và nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ Tổ quốc; về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

- Quy định tội phạm mới đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế; tiếp tục cụ thể hóa các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phù hợp với đòi hỏi của kinh tế thị trường.

Thứ sáu, đối với pháp luật phục vụ hội nhập quốc tế:

- Đẩy mạnh việc rà soát, ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Chú trọng việc nội luật hoá những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là các điều ước quốc tế về tự do hóa thương mại thế hệ mới (như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU, Hiệp định CPTPP./.

Ths. Đỗ Bích Hường

...