Nhìn chung, nước ta đang có vị thế tương đối tốt để đạt được kỳ vọng số, nhưng cần tận dụng sức mạnh của mình và thu hẹp khoảng cách ở những điểm còn yếu để chuyển đổi số nền kinh tế.
Ảnh minh họa - Internet
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, nước ta đạt kết quả tốt về kết nối, nhưng tốc độ còn chậm, và cần đầu tư khoảng 6 tỷ USD để hiện đại hóa và duy trì cơ sở hạ tầng nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận toàn dân trong những năm tới. Chính phủ đã chứng tỏ được hiệu quả xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt thông qua hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT). Nếu được thực hiện, các dự án đầu tư này sẽ khuyến khích và bổ trợ cho quá trình ứng dụng các công nghệ và dịch vụ số khác, trong đó có thương mại điện tử, thanh toán điện tử, và cung cấp dịch vụ công.
Tuy nhiên, lợi ích về năng suất của các công nghệ và phương thức mới sẽ không trở thành hiện thực nếu không có nỗ lực của doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách để đẩy nhanh việc ứng dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, tăng trưởng và thúc đẩy lan tỏa năng suất. Các chính sách ủng hộ thử nghiệm và tái phân bổ, cũng như có lực lượng quản lý và người lao động tài năng, chất lượng cao là những điều kiện quan trọng để nước ta chiến thắng trong cuộc đua này.
Sử dụng rộng rãi và hiệu quả các công nghệ số cũng yêu cầu phải tăng cường cơ sở pháp lý, nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động và nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy, các cấp có thẩm quyền cần xử lý những yếu kém hiện nay thông qua nâng cao kỹ năng số để mở ra lợi ích số cho tất cả mọi người; bồi dưỡng năng lực đổi mới sáng tạo bằng cách xử lý thất bại của thị trường và của Chính phủ; cải thiện khả năng tiếp cận và chất lượng thông tin, cũng như quyền riêng tư.
Vấn đề đặt ra là vì sao cần phải nâng cao kỹ năng số! Thực tiễn cho thấy, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, người lao động rất cần đến những kỹ năng phù hợp để tận dụng quá trình chuyển đổi số. Người dùng cần có kỹ năng và năng lực để tiết kiệm thời gian tối đa và quản lý thông tin được thu thập qua các nền tảng số. Nếu không có kỹ năng số, rủi ro lớn là việc làm trong tương lai sẽ không đến được với người tìm việc ở Việt Nam. Ứng dụng công nghệ số dự kiến sẽ loại bỏ không ít lao động có kỹ năng thấp và trung bình. Tại Việt Nam, ước tính từ 20 đến 30% việc làm hiện nay đang có nguy cơ sẽ bị chuyển đổi hoặc biến mất trong vài năm tới, vì vậy đào tạo lực lượng lao động cho những công việc mới đóng vai trò hết sức quan trọng.
Nhiều ý kiến cho rằng, hiện nay ở nước ta, số lượng lao động có trình độ trong lực lượng lao động còn thấp; và, số lượng học sinh đăng ký học tiếp sau phổ thông chưa đủ để bù đắp thiếu hụt lực lượng lao động có trình độ cho hiện tại và tương lai. Với tốc độ như hiện nay, Việt Nam phải mất 25 năm để đuổi kịp Thái Lan. Nhiều doanh nghiệp cho biết họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và giữ chân những chuyên viên phân tích dữ liệu, lập trình viên và chuyên gia mô hình hóa giỏi. Do vậy, để nâng cao năng lực số cho người lao động, trước hết, cần tăng cường giáo dục và đào tạo công nghệ thông tin (CNTT) ở các cấp, đặc biệt thông qua hệ thống các trường kỹ thuật và dạy nghề. Điều này đòi hỏi phải cải cách nền móng hệ thống đào tạo kỹ thuật và dạy nghề, bao gồm mô hình hoạt động, thiết kế chương trình học, kết nối hiệu quả với giáo dục phổ thông và giáo dục cao đẳng, đại học.
Việt Nam cũng cần cải thiện kỹ năng mềm cho người lao động, qua đó củng cố khả năng thích ứng của họ trong một môi trường mà bản chất công việc và việc làm cụ thể đang thay đổi nhanh chóng. Nhiều kỹ năng nghề nghiệp truyền thống đang trở nên lỗi thời. Cùng lúc đó, những cơ hội mới đang xuất hiện thông qua các hoạt động và mô hình kinh doanh mới, chẳng hạn ngày càng có nhiều cơ hội về việc làm cộng tác dựa trên CNTT&TT trên các mạng xã hội, về tạo dựng thương hiệu sản phẩm trên các nền tảng thương mại điện tử, và phân tích dữ liệu thu thập từ các trang web. Chính phủ có thể khuyến khích các sáng kiến xây dựng những kỹ năng cốt lõi mà người dân cần có, để họ có thể tận dụng, mở rộng và thích ứng những kỹ năng này nhằm đáp ứng nhu cầu của tiến bộ công nghệ. Trong bối cảnh mọi thứ đều thay đổi nhanh chóng và chưa rõ ràng về yêu cầu của công việc trong tương lai, sự hợp tác giữa Chính phủ và khu vực tư nhân có thể giúp xác định và dự tính kỹ năng nào sẽ cần nhất.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh bồi dưỡng năng lực đổi mới sáng tạo. Để duy trì năng lực cạnh tranh, thì đổi mới sáng tạo liên tục là điều kiện bắt buộc. Đồng thời, để xúc tiến đổi mới sáng tạo, cần tìm sự cân bằng giữa các doanh nghiệp lớn, tiên tiến và các doanh nghiệp nhỏ, năng động. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp nhỏ tuy có sự linh hoạt và có khả năng chấp nhận rủi ro cao hơn, do đó lại trở thành thách thức đối với các doanh nghiệp lớn. Do đó, hệ thống sẽ được vận hành tốt nếu các công ty lớn được quản lý nhà nước tốt, còn các doanh nghiệp khởi nghiệp mới nổi và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo nhỏ cần được hỗ trợ qua các chương trình hiệu quả của Chính phủ; mặc dù tháng 1 năm 2018, Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ có hiệu lực, với các quy định chi tiết về hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp trong các lĩnh vực như chuyển giao công nghệ, đào tạo, xúc tiến thương mại, đầu tư, vay vốn ưu đãi, và các ưu đãi cho quỹ đầu tư mạo hiểm, nhưng trong thực tế, các chương trình hỗ trợ này vẫn nhỏ và manh mún, chủ yếu được triển khai ở cấp địa phương.
Thứ ba, đẩy mạnh tiếp cận thông tin, chất lượng thông tin và an ninh thông tin. Vấn đề này đòi hỏi cần quan tâm hơn nữa và giải quyết một số thách thức, như: 1) Khả năng lưu động dữ liệu, khả năng trao đổi và sử dụng dữ liệu là những yếu tố thiết yếu để đảm bảo rằng lợi ích từ việc tiếp cận thông tin tốt hơn có thể nhân lên cho nhiều người dùng với chi phí thấp nhất có thể. Dữ liệu được thu thập cho một mục đích có khả năng đem lại giá trị kinh tế và xã hội trong nhiều ứng dụng vượt xa so với ứng dụng dự kiến ban đầu. Hai yếu tố trên cũng đóng vai trò thiết yếu trong phòng tránh rủi ro là thông tin nằm trong tay một nhà cung cấp dịch vụ duy nhất và vì vậy dễ có khả năng bị lạm dụng. 2) Tiếp cận thông tin cần không làm tổn hại đến an ninh. Vi phạm của bên thứ ba hoặc tấn công mạng gây tổn thất lên đến 6 ngàn tỷ USD trên toàn thế giới trong năm 2020. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, đã có trên 2.000 vụ tấn công mạng ở Việt Nam trong nửa đầu năm 2020… Ngoài chi phí tài chính, tấn công mạng còn để lại những hệ quả tai hại về quyền riêng tư của người dân và hệ thống quốc phòng của một quốc gia. 3) Quyền kiểm soát luồng thông tin đã trở thành sức mạnh ảnh hưởng đến cách các nền kinh tế và xã hội vận hành. Đã có nhiều sự lạm dụng thông tin của các nhà cung cấp dịch vụ lớn. Ví dụ, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, trong những tháng gần đây, Google bị Liên minh châu Âu phạt gần 5 tỷ USD, và Alibaba bị Trung Quốc phạt 3 tỷ USD…
Việt Nam cũng đã và đang phải đối mặt với những bất cập lớn về phạm vi và chất lượng dữ liệu số. Do vậy, trong lúc hoàn thiện dự thảo Nghị định về bảo mật thông tin cá nhân, Chính phủ cần đẩy mạnh quản lý dữ liệu, bảo vệ quyền riêng tư và tạo thuận lợi cho lưu chuyển dữ liệu số. Điều này đặc biệt liên quan mật thiết đến yêu cầu về lưu chuyển dữ liệu qua biên giới cũng như lưu trữ dữ liệu tại địa bàn…/.