Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2023 của Quốc hội diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, kinh tế toàn cầu vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất ổn, tăng trưởng giảm sút trong khi lạm phát ở nhiều quốc gia vẫn ở mức cao; nền kinh tế Việt Nam từng bước phục hồi song đang đứng trước nhiều thách thức lớn, có những mặt còn trở nên nghiêm trọng hơn so với năm trước, cuối năm còn khó khăn hơn đầu năm, đòi hỏi chúng ta cần có những quyết sách chủ động, ứng phó linh hoạt, sáng tạo để duy trì đà tăng trưởng, có thể “lội ngược dòng” thành công.
Ảnh minh họa - TL
Chúng ta đã nghe bài phát biểu chỉ đạo quan trọng của đồng chí Vương Đình Huệ, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, gợi mở ba nhóm vấn đề then chốt. Đề nghị các quý vị đại biểu, các nhà khoa học tập trung trao đổi, thảo luận, bám sát chủ đề Diễn đàn để kiến nghị, đề xuất được những giải pháp hợp lý, khả thi, tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc, tìm ra những nhân tố phát triển mới, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu của năm “bản lề” 2023, tạo lập nền tảng thuận lợi góp phần thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025 và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn là tiền đề và là điều kiện quan trọng để nền kinh tế Việt Nam bảo vệ được những thành quả phát triển, tăng cường năng lực nội sinh, kiến tạo động lực tăng trưởng bền vững. Là một nền kinh tế có độ mở cao, trong gần một năm qua, Việt Nam đã phải đối diện với nhiều “cơn gió ngược” liên tục đổi chiều và có hiệu ứng mạnh đến từ bên ngoài, kéo theo sức ép lớn về lạm phát, tỷ giá cùng với những rủi ro về thu hẹp thị trường, đứt gãy chuỗi cung ứng, đứt gãy lao động và biến động giá cả của các mặt hàng chiến lược. Trong khi đó, các vấn đề bất cập tích tụ qua nhiều năm của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán bộc lộ rõ hơn sau đại dịch Covid-19, thanh khoản thị trường tiền tệ bị ảnh hưởng nghiêm trọng do ngân hàng SCB phải đưa vào diện kiểm soát đặc biệt…đã ảnh hưởng trực tiếp và tác động đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, gây ra nguy cơ rủi ro hệ thống không nhỏ cho nền kinh tế vừa mới phục hồi mong manh.
Vận dụng linh hoạt, sáng tạo nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Việt Nam đã triển khai đồng bộ các chính sách vừa tập trung chống chịu, thích ứng với các sức ép đến từ bên ngoài; vừa tháo gỡ, xử lý những yếu kém, điểm nghẽn ở bên trong. “Dĩ bất biến” là việc củng cố, duy trì ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, củng cố niềm tin của nhân dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư, để nền kinh tế-xã hội có đủ năng lực chống chịu, có dư địa để ứng phó với các diễn biến bất ngờ. “Ứng vạn biến” là việc điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời hiệu quả chính sách tiền tệ, phối hợp đồng bộ, hài hoà, chặt chẽ với chính sách tài khoá và các chính sách kích cầu, như: hạ mặt bằng lãi suất, giảm thuế VAT, tăng lương trong khu vực công, hỗ trợ mở rộng xuất khẩu, quyết liệt thực hiện tăng giải ngân đầu tư công, đẩy mạnh đối tác công tư, thực hiện quyết liệt hơn các chương trình mục tiêu quốc gia… để đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng trì trệ, giảm sút, từng bước tạo lập và dịch chuyển sang trạng thái cân bằng mới.
Bằng những quyết sách được cân nhắc kỹ lưỡng, kịp thời, phù hợp với tình hình trong xử lý các vấn đề phức tạp, nhạy cảm và chưa có tiền lệ, ba lĩnh vực huyết mạch của nền kinh tế, nơi tập trung nguồn lực lớn, cũng là động lực kích thích tăng trưởng quan trọng là: gia tăng dư nợ tín dụng ngân hàng; khởi tạo lại thị trường vốn trung và dài hạn, nhất là thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp; và thị trường bất động sản từ chỗ có nguy cơ bị tắc nghẽn, căng thẳng, đóng băng đã từng bước được giải toả, khai thông, giữ vững an toàn hệ thống.
Những chuyển biến tích cực đang mang lại niềm tin về triển vọng tươi sáng hơn cho nền kinh tế trong thời gian tới: tăng trưởng đang dần khởi sắc, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước, nhất là khi các chính sách hỗ trợ đã và đang có tác động rõ nét hơn và những dự án đầu tư phát triển lớn được triển khai mạnh trong cả nước, nhất là việc khởi công đồng loạt 12 dự án hạ tầng lớn mang tính kết nối vùng, quốc gia.
Nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua thời điểm khó khăn nhất nhưng chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, những khó khăn không thể khắc phục chỉ trong một sớm, một chiều. Trên thực tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn chưa đạt như kỳ vọng; ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế còn tiềm ẩn rủi ro, nhất là nguy cơ lạm phát gia tăng vào cuối năm; nguy cơ đổ vỡ trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản chưa thể loại trừ; doanh nghiệp chưa thể đẩy nhanh phục hồi sản xuất, kinh doanh; ngay cả vào thời điểm cuối năm khi nhu cầu tiêu dùng tăng cao, xuất khẩu vẫn có thể gặp khó nếu các thị trường lớn trên thế giới rơi vào suy thoái.
Để xác định kịch bản tăng trưởng trong thời gian tới, tôi đề nghị các quý vị, các nhà khoa học thảo luận, tìm ra những giải pháp thực tiễn, khả thi, đột phá nhằm khôi phục các động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế:
(1)- Đánh giá đầy đủ và chủ động khôi phục tiêu dùng trong nước. Ngay cả khi đại dịch đã đi qua, đời sống của một bộ phận người dân vẫn còn rất khó khăn, nhất là khi công nhân tiếp tục bị cắt giảm việc làm và người dân tại các vùng miền chịu tác động của tình hình thời tiết cực đoan, thiên tai, bão lũ phức tạp, có nguy cơ bị trắng tay. Trong khi đó, làn sóng bùng nổ tiêu dùng và dịch vụ (như du lịch) của tầng lớp trung lưu sau đại dịch đã chững lại bởi người dân cân thận trọng đối lại chi tiêu và với việc thị trường bất động sản đóng băng, thị trường chứng khoán đi xuống khiến các tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp trung lưu đã chủ động hạn chế chi tiêu với tâm thế đề phòng rủi ro.
Cần đẩy nhanh sự hồi phục của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và thị trường bất động sản để có tác động lan toả, tạo tín hiệu tích cực, lập lại niềm tin giúp tăng tiêu dùng và đầu tư. Thực tiễn cho thấy, cuối cùng là niềm tin chứ không phải các quy định hành chính mới quyết định khả năng kiểm soát rủi ro và ổn định thị trường trong những thời điểm nhạy cảm của hệ thống tài chính-ngân hàng. Nhận thức rõ điều này để có các chính sách phù hợp, phân loại rõ đối tượng, xác lập hoạt động cần hạn chế hay khuyến khích, điều hành thống nhất thay vì thay đổi giật cục, hoặc áp dụng một chính sách chung cho tất cả, không rõ đối tượng, thiếu tính cụ thể, thậm chí chỉ như một lời khuyến cáo. Việc làm trong sạch thị trường cần đi đôi với tạo lập môi trường thuận lợi, công bằng để khuyến khích mọi chủ thể kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh.
(2)- Khôi phục dòng vốn đầu tư. Trong nửa đầu năm 2023, quy mô vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế đều tăng, song vốn đầu tư công tăng mạnh nhất, còn vốn đầu tư của khu vực FDI và khu vực kinh tế ngoài nhà nước có mức tăng trưởng thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Tình hình giải ngân vốn đầu tư công tuy được cải thiện ít nhiều nhưng còn rất chậm, thực trạng “có tiền nhưng không tiêu được” vẫn phổ biến đối với các dự án cả ở trung ương và địa phương, tạo ra những hệ luỵ dây chuyền, ảnh hưởng trực tiếp đến động lực đầu tư của khu vực tư nhân. Không phải đến bây giờ chúng ta mới nhận ra và nói về điều này, nhưng việc tháo gỡ những vướng mắc về quy định, nguyên tắc phức tạp liên quan đến đầu tư công chưa làm được bao nhiêu. Việc Quốc hội, Chính phủ thông qua, cho phép triển khai các cơ chế đặc thù, thí điểm nới lỏng một số quy định, thủ tục về đấu thầu, giải phóng mặt bằng, đền bù… khi chưa sửa kịp luật phải chăng là giải pháp linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương, các cơ quan, tổ chức và các nhà đầu tư nhanh chóng triển khai dự án.
Cũng cần thấy rằng, chính sách tiền tệ có những giới hạn của nó, càng không được lạm dung khi dư địa để điều hành chính sách tiền tệ không còn nhiều, nhất là khi mặt bằng lãi suất không còn là cứu cánh cho doanh nghiệp đã không còn đủ sức khỏe và không có nhu cầu vay vốn đầu tư do không tìm được thị trường đầu ra cho sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi phải chuyển hướng tập trung ưu tiên chính sách tài khóa, kết hợp triển khai chính sách tiền tệ và tài khóa một cách đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, để hướng dòng vốn vào những công trình hạ tầng lớn, những chương trình mục tiêu quốc gia, những ngành, lĩnh vực có khả năng sớm phục hồi và phát triển, dẫn dắt nền kinh tế.
(3)- Tháo gỡ những khó khăn, khôi phục sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trải qua gần ba năm cầm cự, chống chọi với đại dịch, nguồn lực của các doanh nghiệp đã bị suy kiệt, lại thêm những biến cố gần đây trên thị trường tiếp tục bào mòn niềm tin, tinh thần và ý chí sản xuất, kinh doanh. Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương ban hành nhiều chính sách, giải pháp tháo gỡ những rào cản, khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Điều quan trọng là cần tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả, đưa những chính sách, giải pháp này vào cuộc sống. Ở đây, có hai vấn đề được đặt ra: một mặt, cần thống nhất cách hiểu và quy trình để hạn chế sự tùy tiện trong thực thi, tạo thuận lợi không chỉ cho doanh nghiệp mà cho cả cán bộ, công chức giải quyết thủ tục hành chính. Mặt khác, cần làm rõ nguyên nhân và có giải pháp khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm dẫn đến sự chậm trễ trong thực thi công vụ.
Diễn đàn kinh tế-xã hội năm 2023 không chỉ bàn về những vấn đề trước mắt, mà giải quyết những vấn đề trước mắt để đặt cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề trung hạn và lâu dài. Vấn đề quan trọng mà Diễn đàn nêu ra: nâng cao năng suất lao động là phương thức căn bản nhất để Việt Nam hiện thực hoá mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, bởi điều này gắn liền với việc khởi tạo hai quá trình chuyển dịch cơ bản của nền kinh tế:
(1) - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, di chuyển nguồn lực từ các ngành có năng suất thấp sang các ngành có năng suất cao hơn nhằm sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực. Cần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu không chỉ từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ mà còn ngay trong chính các ngành này theo hướng tăng tỷ trọng các tiểu ngành có năng suất, hàm lượng công nghệ, sản phẩm có chất lượng và giá trị gia tăng cao hơn. Sự chuyển dịch này sẽ diễn ra nhanh hơn nhờ quá trình chuyển đổi số, xanh hoá đang thẩm thấu vào từng sản phẩm, từng khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh và từng hoạt động kinh tế - xã hội.
(2) - Tạo hiệu ứng kinh tế quy mô, khai thác lợi thế nhờ quy mô để tăng năng suất trong từng doanh nghiệp, từng ngành và từng vùng kinh tế. Cần tháo gỡ các nút thắt, giải quyết các điểm nghẽn, tạo điều kiện để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, con người. Đẩy mạnh các cụm liên kết ngành, coi đây là phương thức hữu hiệu giúp các doanh nghiệp cắt giảm chi phí giao dịch, dễ dàng tiếp cận được các dịch vụ hỗ trợ với chi phí thấp, trao đổi, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Vượt qua tư duy nhiệm kỳ, ngắn hạn, tư tưởng cục bộ, chủ nghĩa địa phương, quyết tâm đổi mới và xây dựng các thể chế liên kết vùng thật sự hiệu lực, hiệu quả, theo các Nghị quyết của Bộ Chính trị trên nguyên tắc “cùng làm, cùng hưởng, cùng thắng”; giúp các địa phương trong vùng phát huy được tiềm năng, lợi thế, tận dụng tốt vị trí kết nối, xây dựng được hình ảnh, thương hiệu về việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, đáng sống, đáng đầu tư, có sức hấp dẫn cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Nhìn lại những nỗ lực phấn đấu, những kết quả đạt được và cả những điều chưa làm được trong năm 2023 và qua nửa nhiệm kỳ 2021 – 2025, chúng ta cần tiếp tục kế thừa những bài học kinh nghiệm sâu sắc đã đúc kết được:
(1)- Bài học về hoán chuyển những rủi ro, thách thức từ bên ngoài trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tạo ra sự phân mảng, đứt gãy của nền kinh tế thế giới, sự dịch chuyển, phân tách của các chuỗi cung ứng toàn cầu trở thành cơ hội để Việt Nam phát huy vai trò tâm điểm kết nối, thu hút các dòng vốn đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu. Nhờ việc tham gia một mạng lưới FTA rộng khắp và sự nâng tầm các mối quan hệ đối tác chiến lược, thể hiện rõ nhất là các nội dung mới trong tuyên bố chung đạt được với Trung Quốc trong chuyến thăm lịch sử của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (10/2022) và tuyên bố chung Việt Nam-Hoa Kỳ nâng tầm mối quan hệ với Hoa Kỳ lên Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững vừa qua, Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội để phát triển các ngành công nghiệp chế tạo có giá trị gia tăng cao, các phân ngành dịch vụ tích hợp vào các sản phẩm chế tạo và cả một số ngành công nghệ cao hàng đầu; cần có kế hoạch, lộ trình, và đề án để tận dụng việc triển khai các hiệp định đối tác, đẩy nhanh các quá trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, v.v; và theo đó, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội trở thành nhà cung ứng, cung cấp dịch vụ cho các tập đoàn đa quốc gia, tham gia sâu hơn và ở những nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.
(2)- Bài học về vượt khó và càng trong khó khăn, càng cần phải chú ý đến mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, tích cực hỗ trợ những người lao động, người nghèo trước nguy cơ bị mất việc làm, thu nhập giảm sút và giá cả của nhiều mặt hàng thiết yếu gia tăng. Đây cũng là dịp để phát huy vai trò của hệ thống chính sách giảm nghèo, bảo đảm an ninh và an sinh xã hội, những mô hình độc đáo, nhân văn như tín dụng chính sách xã hội trong việc mang lại sinh kế, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống cho người dân có thu nhập thấp, thúc đẩy bình đẳng giới, giúp đảm bảo an sinh, trật tự và an toàn xã hội, nhất là ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cần tiếp tục khẳng định mạnh mẽ phương châm: phát triển vì con người, đặt người dân ở trung tâm của quá trình phát triển, ổn định để phát triển và phát triển để đảm bảo tăng trưởng bền vững, mà Việt Nam đã kiên định tiến hành qua gần 40 năm đổi mới.
(3)- Bài học trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách trên nguyên tắc: phải bám sát chương trình, kế hoạch hành động; chủ động, sáng tạo, linh hoạt đề ra những giải pháp khả thi, bám sát thực tiễn gắn với cụ thể hoá, cá thể hóa trách nhiệm; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với uỷ quyền, trao quyền và giao quyền cụ thể; đổi mới tư duy và phương thức phân bổ nguồn lực, thống nhất tiếp cận: ngân sách là nguồn lực quốc gia, ngân sách quốc gia thay vì phân tách ngân sách trung ương và địa phương trong các dự án liên vùng; phát huy trí tuệ và bản lĩnh “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” của người đứng đầu; tăng cường phối hợp và kiểm tra, giám sát; tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời điều chỉnh ở từng thời điểm và nhiệm vụ; nâng cao năng lực quản trị thực thi để biến quyết tâm vượt trội thành hành động thực tế và từ hành động tạo ra được các kết quả phát triển cụ thể, thiết thực.
Với tinh thần khoa học và trách nhiệm, một lần nữa, tôi đề nghị các nhà khoa học, chuyên gia, các nhà lãnh đạo, quản lý, doanh nhân tham gia Diễn đàn hôm nay tập trung trao đổi, thảo luận để xác định những biện pháp mới, có tính đột phá đưa kinh tế- xã hội Việt Nam vững vàng vượt qua thách thức, biến nguy thành cơ, tận dụng được các xu hướng lớn để hoán chuyển các nguồn lực tiềm năng thành các động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị,
Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương