Nhờ đó, Đảng ngày càng vững mạnh, vững vàng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ảnh minh họa - QK4 Online
1. Mở đầu
Đạo đức thuộc ý thức xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố cấu thành nền tảng tinh thần xã hội, gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Chuẩn mực đạo đức là những nguyên tắc, quy tắc mang tính mực thước, khuôn mẫu đánh giá, điều chỉnh hành vi của con người, phản ánh sự tiến bộ, văn minh của xã hội. Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong thể chế chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo, cầm quyền có 3 đặc tính cơ bản là: 1) Đạo đức cách mạng là gốc, nền tảng của người cách mạng, yêu cầu chuẩn mực ở mức độ cao; 2) Thể hiện trình độ, sự tiến bộ của chế độ xã hội; 3) Phản ánh sức mạnh mềm, có khả năng chi phối, thúc đẩy quá trình phát triển xã hội.
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng bằng bản lĩnh, trí tuệ, sự nêu gương về đạo đức cách mạng và sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
2. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng đối với xây dựng Đảng về đạo đức
Một là, phát triển về quan điểm, nhận thức lý luận
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng đặt ra yêu cầu bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức mới, nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Đảng đề cao và chú trọng yêu cầu chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, đặc biệt Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18-6 - 1997 của Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 02 - 02 -1999 Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay đã rất nhấn mạnh yêu cầu về phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016), lần đầu tiên Đảng ta đặt xây dựng Đảng về đạo đức ngang hàng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, khẳng định mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”(1).
Đến Đại hội XIII (năm 2021), xây dựng Đảng về đạo đức tiếp tục được khẳng định là một trong năm nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng yêu cầu: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(2).
Việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên được Đảng ta chú trọng. Nhiều chỉ thị, nghị quyết về xây dựng Đảng, trong đó có nội dung nhấn mạnh xây dựng Đảng về đạo đức gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được ban hành. Cùng với đó, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, quyết sách quan trọng cùng với các biện pháp xử lý nghiêm khắc, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” nhằm tạo bước phát triển rất mới về nhận thức, tư duy, lý luận và hành động của Đảng trong xây dựng, rèn luyện tư tưởng, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tác phong và lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hai là, phát triển nhận thức lý luận về vai trò, nội dung, giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức.
Xây dựng Đảng về đạo đức luôn được Trung ương và các cấp ủy, tổ chức đảng xác định có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới đất nước, quan điểm của Đảng trong công tác xây dựng Đảng đã cho thấy vai trò quan trọng của việc rèn luyện đạo đức cách mạng, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gương mẫu tự rèn luyện, tự phấn đấu nâng cao đạo đức cách mạng.
Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu trong lối sống. Người có chức vụ càng cao thì yêu cầu về sự gương mẫu càng lớn. Không ai có quyền tự ban cho mình những đặc quyền, đặc lợi”(3).
Các Đại hội tiếp theo tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo xây dựng đạo đức trong Đảng, trong đó chỉ rõ: “...xây dựng các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự trong sạch và vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, kiến thức và năng lực lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, gắn bó mật thiết với nhân dân; khắc phục các mặt yếu kém, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái”(4). Đặc biệt, ngày 27-3-2003, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. Đây là bước quan trọng mở ra quá trình nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng và toàn xã hội.
Đến Đại hội XI, Đảng nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng về đạo đức gắn với trách nhiệm nêu gương; đồng thời, nêu bật một số nhiệm vụ quan trọng cần thực hiện ngay theo Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16-01-2012 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
Đại hội XII của Đảng đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình nhận thức của Đảng khi xác định rõ vị trí, vai trò quan trọng của xây dựng Đảng về đạo đức, nêu rõ nội hàm và đặt ngang hàng với các nhiệm vụ trọng yếu về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng khẳng định: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”(5). Các nghị quyết chuyên đề cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Đại hội XII đã được Trung ương ban hành kịp thời, khẳng định thêm ý nghĩa sâu sắc của xây dựng Đảng về đạo đức trong tình hình mới. Việc Đảng ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã khẳng định vai trò quan trọng đặc biệt của xây dựng Đảng về đạo đức. Ngay sau đó, một loạt các chủ trương cụ thể về rèn luyện đạo đức, nêu gương, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng được ban hành kịp thời, tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng, tính cấp bách của xây dựng Đảng về đạo đức, chỉ rõ yêu cầu về vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.
Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đồng thời yêu cầu “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày”(6).
Việc ban hành Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10 - 2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25 - 10 - 2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm là một bước quan trọng cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng trong xây dựng Đảng về đạo đức, nhằm tạo ra những giá trị thiết thực, đóng góp hiệu quả hơn nữa đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, củng cố niềm tin trong nhân dân, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
“Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đồng thời yêu cầu “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”.
Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 144- QĐ/TW ngày 09 - 5 - 2024 về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, đánh dấu bước phát triển quan trọng về lý luận trong xây dựng Đảng về đạo đức. Quy định số 144-QĐ/TW tập trung 5 điều chuẩn mực đạo đức cách mạng cụ thể mà cán bộ, đảng viên cần phải thực hiện: 1) Yêu nước, tôn trọng nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc; 2) Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập; 3) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; 4) Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; 5) Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời.
3. Thực tiễn xây dựng Đảng về đạo đức trong thời kỳ đổi mới
Qua gần 40 năm đổi mới, xây dựng Đảng về đạo đức đạt nhiều kết quả, có ý nghĩa sâu sắc. Công tác giáo dục lý luận chính trị, bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, truyền thống cách mạng đối với cán bộ, đảng viên đã có những chuyển biến tích cực, đi vào nền nếp. Hệ thống các trường chính trị, trung tâm chính trị cấp huyện được kiện toàn. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, giáo trình giảng dạy lý luận chính trị được cập nhật, biên soạn theo hướng gắn kết giữa lý luận với thực tiễn.
Văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nội dung, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện xây dựng Đảng về đạo đức được xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ từ Trung ương đến các cấp ủy, tạo cơ sở chính trị quan trọng đẩy mạnh xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung. Trên cơ sở đó, Chính phủ, các ban, bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương đã xây dựng các quy định cụ thể, nội dung cốt lõi là các chuẩn mực đạo đức có sự cụ thể hóa thành đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử mang tính đặc thù của từng đơn vị, ngành nghề, địa phương.
Trong quá trình thực hiện, các cơ quan, ban ngành, địa phương đã đưa các yêu cầu, quy định đạo đức vào nghị quyết đảng bộ, chương trình hành động, gắn với các nhiệm vụ chính trị, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tạo nhiều chuyển biến tích cực trong xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng.
Việc thực hiện các nghị quyết, quyết định, kết luận của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nêu gương có chuyển biến tích cực. Cấp ủy các cấp quan tâm, coi trọng việc xây dựng và phát huy tinh thần nêu gương của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ trong công tác hằng ngày, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đề cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống; gương mẫu đi đầu, tận tụy với công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Các cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo sơ kết, tổng kết, tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”; chú trọng kết hợp giữa học tập với làm theo và nêu gương trong mỗi tổ chức và cá nhân, ở từng cấp, từng lĩnh vực; mở các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng với nhiều chủ đề sâu sắc.
Những kết quả đạt được trong xây dựng Đảng về đạo đức là một trong những thành tựu quan trọng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới đất nước; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị(7).
Bên cạnh những kết quả đạt được, xây dựng Đảng về đạo đức vẫn còn một số hạn chế. Công tác giáo dục lý luận chính trị tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Một số nội dung chương trình, giáo trình lý luận chính trị còn nặng về lý thuyết. Giáo dục lý tưởng, truyền thống cách mạng, đạo đức, lối sống hiệu quả chưa cao. Hệ thống giáo dục lý luận chính trị còn chồng chéo trong mô hình tổ chức, bộ máy, phương thức quản lý. Một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa coi trọng, đầu tư đúng mức đối với công tác giáo dục lý luận chính trị, hiệu quả còn hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng; quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, bè phái, mất đoàn kết nội bộ; chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(8).
Bên cạnh đó, việc thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên chưa trở thành nền nếp, hiệu quả chưa cao. Việc đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc về đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ. Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao. Trong khi đó, công tác kiểm tra ở một số nơi chưa thường xuyên, quyết liệt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; công tác giám sát còn hẹp về phạm vi, đối tượng, kết quả chưa thực chất. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa chuyển biến rõ rệt; tham nhũng, lãng phí vẫn còn diễn biến phức tạp.
Hệ thống các văn bản của Đảng, Nhà nước hiện hành dù đã đề cập và thể hiện các yêu cầu phẩm chất đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên, nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể. Quy định hiện nay của các cơ quan, ban ngành, địa phương chủ yếu tập trung quy định đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp... Điều này dẫn tới bất cập trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá.
4. Nhiệm vụ tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức trong thời kỳ phát triển mới của đất nước
Một là, xây dựng Đảng về đạo đức là nhiệm vụ trọng yếu, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược trong công tác xây dựng Đảng. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng cơ bản hàng đầu để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố và tăng cường đoàn kết trong Đảng, gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và nhân dân.
Hai là, gắn kết chặt chẽ, đồng bộ việc thực hiện các nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức với các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, các quy định nêu gương và học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn phải cụ thể, rõ ràng, dễ thực hiện; tổ chức thực hiện phải linh hoạt, sáng tạo, phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm, thế mạnh của mỗi cán bộ, đảng viên. Nâng cao khả năng cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực, đồng thời khuyến khích, cổ vũ cán bộ, đảng viên đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của nhân dân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.
Ba là, xác định đúng và trúng các khâu đột phá, nhiệm vụ trọng tâm để tập trung lãnh đạo thực hiện. Xây dựng Đảng về đạo đức phải xuất phát từ thực tiễn; xuất phát và bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng. Trong đó, việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được xem là khâu then chốt, mục tiêu mà Đảng ta cần phấn đấu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc đến những thắng lợi vẻ vang.
Bốn là, chú trọng công tác tuyên truyền nội dung công tác xây dựng Đảng về đạo đức, không ngừng đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền, kịp thời phản ánh sinh động các gương điển hình, mô hình, cách làm sáng tạo, hiệu quả. Trong phương pháp tiến hành, phải hết sức thận trọng, tiến hành phù hợp với đối tượng, từng yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của thực tiễn cách mạng đặt ra, bởi công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng luôn chứa đựng những yếu tố nhạy cảm.
Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và biểu dương, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và trong các phong trào thi đua yêu nước. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm.
5. Kết luận
Xây dựng Đảng về đạo đức là nhiệm vụ hàng đầu trong tổng thể công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, vừa là yêu cầu cấp bách vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Để xây dựng Đảng về đạo đức đạt kết quả, cần phải tiến hành đồng thời với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ và phải được tiến hành ở tất cả các cấp, xây dựng đạo đức trong tổ chức đảng và xây dựng đạo đức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do xây dựng Đảng được xác định là một nội dung công tác cơ bản của Đảng, cần bổ sung, hoàn thiện toàn diện hơn các thể chế, thiết chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, bao gồm xây dựng về đạo đức, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về đạo đức.
PGS, TS TRẦN THỊ HƯƠNG
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
TS ĐOÀN VĂN BÁU
Vụ Lý luận chính trị, Ban Tuyên giáo Trung ương
_________________
(1), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.202, 202.
(2), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180, 184.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.474.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.60, Sđd, tr.382.
(7) Theo Báo cáo số 18-BCĐT/DLXH ngày 03-02-2020 của Ban Tuyên giáo Trung ương về kết quả thăm dò dư luận xã hội về một số vấn đề của đất nước: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được cán bộ, đảng viên đánh giá đạt kết quả đáng phấn khởi, tăng từ 39% năm 2018 lên 59% năm 2019; phòng, chống tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm” được cán bộ, đảng viên đánh giá đạt kết quả đáng phấn khởi, tăng từ 29% năm 2018 lên 48% năm 2019.
(8) Kết quả thăm dò dư luận do Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện trong tháng 4/2023 cho thấy, tỷ lệ từ 50% trở lên cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng những biểu hiện suy thoái đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên đang diễn ra đáng lo ngại, khiến họ rất lo lắng, bức xúc, đó là: 1) Sợ trách nhiệm, không dám làm, không dám đổi mới (54%); 2) Bè phái, cục bộ, vậy cánh, “lợi ích nhóm” (53%); 3) Tham nhũng, tiêu cực (52%); 4) Thực dụng, chỉ vun vén cho lợi ích cá nhân (51%); 5) Dĩ hòa vi quý, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh (50%).