Tóm tắt: Thừa nhận sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong quá trình chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế đã và đang trở thành xu hướng tất yếu của Việt Nam. Tuy nhiên, để kinh tế tư nhân có thể phát triển và đạt được các mục tiêu kỳ vọng mà Chính phủ đề ra thì đòi hỏi phải thực hiện quyết liệt và đồng bộ nhiều giải pháp. Bài viết này làm rõ hơn quan niệm, quá trình trình triển khai ý tưởng đến tạo dựng khung pháp lý cho kinh tế tư nhân ở Việt Nam gần 40 năm qua. Trên cơ sở đó mà đề xuất một vài khuyến nghị có thể giải quyết một cách căn bản nhất môi trường hoạt động cho kinh tế tư nhân ở nước ta trong kỷ nguyên mới.
Từ khóa: kinh tế tư nhân, quan niệm kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh

Ảnh minh họa - NDO
1. Quan niệm về kinh tế tư nhân
Quan niệm về kinh tế tư nhân không phải ở đâu và lúc nào cũng giống nhau. Nhưng kinh tế tư nhân luôn được coi là một cấu phần quan trọng trong hệ thống kinh tế của mỗi quốc gia. Đó là quan niệm phổ biến và được thừa nhận rộng rãi trên các diễn đàn mang tính lý luận hay thực tiễn quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô. Xét trên giác độ của kinh tế học, kinh tế tư nhân là sự hợp thành của các thành phần kinh tế mà sự hình thành và phát triển của nó dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Bởi vậy, mọi vấn đề có liên quan đến hoạt động kinh tế của các thành phần này (từ mục tiêu, cách làm, đến phân chia kết quả, …) đều do các cá nhân hay nhóm cá nhân có quyền sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định phù hợp với khung pháp lý của xã hội đương đại.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, kinh tế tư nhân cũng ngày càng phát triển đa dạng cả về hình thức và nội dung. Nếu ở hình thái kinh tế - xã hội phát triển thấp, kinh tế tư nhân mới chỉ có một vài hình thức như: cá thể, tiểu chủ, tiểu thương, … với quy mô kinh tế chủ yếu thuộc về hộ gia đình hay nhóm hộ gia đình. Khi hình thái kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghĩa hình thành đã làm nảy sinh giai cấp mới – giai cấp tư sản, và cách thức sản xuất hàng hóa đã từng bước chuyển từ sản xuất thủ công sang cơ giới hóa, tự động hóa làm xuất hiện các công ty thuộc sở hữu tư nhân với các quy mô rất khác nhau. Bên cạnh đó, các hình thức của kinh tế tư nhân với quy mô nhỏ thuộc về các hộ gia đình hay nhóm hộ gia đình vẫn song song tồn tại. Bước sang thế kỷ XX hình thái kinh tế - xã hội Xã hội chủ nghĩa đã hình thành ở một số quốc gia theo mô hình công hữu hóa đại bộ phận tư liệu sản xuất vào trong tay Nhà nước nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Mặc dù vậy, kinh tế tư nhân vẫn được các chính phủ theo mô hình Chủ nghĩa xã hội thừa nhận sự tồn tại và cùng phát triển với các thành phần kinh tế Xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, khi hầu hết các quốc gia đã từng xây dựng và phát triển nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung từng bước chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, thì kinh tế tư nhân; đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân lại có cơ hội phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia thực hiện chuyển đổi, đã và đang dành nhiều sự quan tâm và định hình lại sự phát triển của kinh tế tư nhân trong điều kiện mới. Theo đó, quan niệm về kinh tế tư nhân của Việt Nam hiện nay, bao gồm: “… doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh và tổ chức, cá nhân khác có liên quan” [10, điều 2]; trong đó doanh nghiệp được hiểu là tổ chức kinh tế do tư nhân nắm quyền sở hữu hoặc nắm quyền chi phối về tư liệu sản xuất.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi quan niệm kinh tế tư nhân là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế, được hình thành và phát triển dựa trên sở hữu tư nhân hoặc tư nhân nắm quyền chi phối về tư liệu sản xuất trong hoạt động kinh tế phù hợp với khuôn khổ pháp luật của Nhà nước hiện đang có hiệu lực thi hành. Theo đó các hình thức biểu hiện của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh, nhóm hộ kinh doanh, và cá nhân kinh doanh.
Quan niệm về kinh tế tư nhân như trên ngoài việc đề cao tính bất biến của chế độ sở hữu, đồng thời cũng nhấn mạnh rằng sự tồn tại, phát triển của kinh tế tư nhân ở mỗi quốc gia bị chi phối không nhỏ bởi khuôn khổ pháp luật và cách thức tổ chức vận hành hoạt động kinh tế của Nhà nước ở mỗi quốc gia đó. Thực tiễn gần 40 năm kể từ khi có ý tưởng cho đến khi có khung pháp lý, những chủ trương phù hợp của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nỗ lực tổ chức chỉ đạo và thực hiện của Quốc hội, Chính phủ sẽ là minh chứng xác đáng cho vị thế của thể chế tác động tới sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam những năm qua.
2. Từ ý tưởng đến triển khai ý tưởng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam gần 40 năm qua
Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển nền kinh tế của cả nước theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp nhưng nhiều mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội mà các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra vẫn không cán đích. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI diễn ra vào trung tuần tháng 12 năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “… Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Sử dụng khả năng tích cực của kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, đồng thời vận động và tổ chức những người lao động cá thể vào các hình thức làm ăn tập thể để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; sắp xếp, cải tạo và sử dụng tiểu thương, giúp đỡ số người không cần thiết trong lĩnh vực lưu thông chuyển sang sản xuất và dịch vụ. Sử dụng kinh tế tư bản tư nhân (tư sản nhỏ) trong một số ngành, nghề, đi đôi với cải tạo họ từng bước bằng nhiều hình thức kinh tế tư bản nhà nước” [5]
Như vậy, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân theo các hình thức khác nhau đã được xác lập từ đây. Song từ chủ trương cho đến khi có được cơ sở pháp lý vững vàng cho kinh tế tư nhân yên tâm xây dựng và phát triển cũng mất tròn 05 năm. Tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật Doanh nghiệp tư nhân vào ngày 21 tháng 12 năm 1990. Kể từ ngày 15 tháng 04 năm 1991, theo đó: “Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh” [7, Điều 3]
Trên giác độ tài chính, sự thể hiện tính công bằng về thuế giữa các thành phần kinh tế đã có sự chuyển động sớm hơn. Luật Thuế doanh thu, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế lợi tức đã được Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1990, có hiệu lực thực thi kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1990 [6]. Kể từ đây Chế độ thuế công thương nghiệp dành cho kinh tế tư nhân đã bị xóa bỏ. Mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều bình đẳng nghĩa vụ nộp các khoản thuế vào ngân sách nhà nước.
Các năm tiếp theo, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện khung pháp lý nhằm tạo nền tảng vững chắc cho kinh tế tư nhân phát triển. Hiến pháp năm 1992 đã xác định: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” [8, Điều 15]. Tiếp đó, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đã khẳng định: “Nhà nước bảo hộ và khuyến khích tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam” [9, Điều 1]
Vào năm 1999 Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp số 13/1998/QH10 có hiệu lực thực thi kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2000. Kể từ đây các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải tổ chức hoạt động và dẫn chiếu theo các quy định của luật này. Đây thực sự là một bước tiến mới về thể chế nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Mặc dù vậy, khi kiểm điểm đánh giá về quá trình triển khai ý tưởng phát triển kinh tế tư nhân sau hơn 15 năm, Ban Chấp hành Trung ương vẫn nhận định: “… kinh tế tư nhân nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém: phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất; … không ít đơn vị vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép...” [1]. Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã quyết nghị phải thực hiện tốt 05 nhiệm vụ: (i) Thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân; (ii) Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân; (iii) Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách; (iv) Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước; (v) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội doanh nghiệp đối với việc phát triển kinh tế tư nhân. Thông qua đó nhằm tiếp tục thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Sau hơn 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 14-NQ/TW, kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển của đất nước. Ngày 03 tháng 06 năm 2017, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII lại ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân hơn nữa; coi đây như một trong những động lực cho sự phát triển của đất nước những năm 2020 – 2030. Một trong những mục tiêu mà Nghị quyết số 10-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đặt ra là: “Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đến năm 2020 đạt khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60 - 65%.” [2]
Tổng kết, đánh giá gần 40 năm đổi mới, phát triển kinh tế tư nhân; đồng thời khẳng định tính kiên định của Trung ương Đảng về chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, ngày 04 tháng 05 năm 2025 Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Tại đây, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII kỳ vọng: đến năm 2030 “Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10- 12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55- 58% GDP, khoảng 35- 40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84- 85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5 - 9,5%/năm”; đến năm 2045 “Kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP” [3]. Đây thực sự là một định hướng chiến lược nhằm nâng tầm kinh tế tư nhân lên một vị thế mới trong môi trường kinh tế toàn cầu dựa trên nền tảng của công nghệ số và trí tuệ nhân tạo.
3. Một số thành quả, hạn chế và khuyến nghị về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Một số thành quả:
Trải qua gần 40 năm xây dựng và phát triển, kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã và đang từng bước khẳng định được vị thế của mình trong tiến trình xây dựng và phát triển của đất nước. Những thành quả của sự phát triển kinh tế tư nhân rất đáng ghi nhận, bao gồm:
Thứ nhất, tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đang tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế đã tăng từ 82,77% ở năm 2000 lên 96,62% ở năm 2022. Như vậy, trung bình tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân đã tăng +0,62%/năm trong suốt 22 năm qua. Hình 1 cho thấy tỷ trọng áp đảo của doanh nghiệp tư nhân trong tổng số 735.455 doanh nghiệp đang tồn tại và hoạt động có kết quả kinh doanh ở Việt Nam cuối năm 2022. Cùng thời điểm này Việt Nam cũng có khoảng 5,2 triệu hộ kinh doanh cùng tồn tại và hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Rõ ràng, trên diện rộng kinh tế tư nhân đã có được sự phát triển rất tốt về số lượng cơ sở kinh doanh cùng đồng hành với các thành phần kinh tế khác xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam những năm qua.
Hình 1- Tỷ trọng các doanh nghiệp hoạt động có kết quả kinh doanh cuối năm 2022 ở Việt Nam
Nguồn: [11]
Thứ hai, tính đến cuối năm 2022 kinh tế tư nhân đã tạo việc làm cho khoảng 18.000.000 lao động; trong đó các hộ kinh doanh đã tạo ra khoảng gần 9.000.000 việc làm, còn lại là do doanh nghiệp tư nhân tạo ra. Riêng doanh nghiệp tư nhân đã có mức tăng trưởng việc làm bình quân trong giai đoạn 2000 – 2022 ở mức +1,3%/năm. Nhờ đó đã nâng tỷ lệ tạo việc làm của các doanh nghiệp tư nhân trong tổng số việc làm của các doanh nghiệp trong nền kinh tế từ 29,43% ở năm 2000 lên 59,2% ở năm 2022.
Thứ ba, tỷ trọng đóng góp vào GDP của kinh tế tư nhân tương đối cao so với các thành phần kinh tế khác (xem hình 2).

Hình 2- Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế
Nguồn: Tổng cục Thống kê 2021
Rất tiếc là số liệu về đóng góp vào GDP của kinh tế tư nhân không được cập nhật liên tục. Nhưng trong diễn đàn Hội nghị thường trực Chính phủ gặp gỡ các doanh nghiệp diễn ra ngày 10 tháng 02 năm 2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã công bố đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP ở năm 2024 đạt khoảng 45% [12]. Như vậy, bình quân trong khoảng 05 năm (2020 – 2024) kinh tế tư nhân đã tăng mức đóng góp vào GDP cả nước ở mức +1,19%/năm.
Một số hạn chế:
Một là, tuy có số lượng doanh nghiệp tư nhân khá hùng hậu nhưng quy mô của các doanh nghiệp này về cơ bản còn quá nhỏ (xem bảng 1) so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế.

Bảng 1 cho thấy, nếu xét theo tiêu chí quy mô vốn kinh doanh đã được quy định theo Nghị định số 80/2021/NĐ-CP thì tính đến hết năm 2023 Việt Nam có tới 70,03% doanh nghiệp tư nhân xếp vào hạng nhỏ và siêu nhỏ, 27,7% xếp vào hạng nhỏ và vừa, và chỉ có 2,25% là doanh nghiệp lớn. Như vậy, tiềm năng từ nguồn lực tài chính để kinh tế tư nhân có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam có thể nói là không đáng kể.
Hai là, số hộ kinh doanh lên tới 5.084.824 hộ và đang sử dụng từ 50% lao động trở lên trong tổng số lao động của khu vực kinh tế tư nhân mấy năm qua (xem bảng 2).
Bảng 2- Cơ cấu lao động của kinh tế tư nhân
Đơn vị tính: Triệu người
|
Nội dung |
2015 |
2018 |
2019 |
2020 |
2021 |
|
8,0 |
8,7 |
9,0 |
8,7 |
8,6 |
|
7,7 |
9,0 |
9,1 |
8,6 |
8,5 |
Nguồn: [11]
Tuy vậy, mức đóng góp vào ngân sách nhà nước của các hộ này vẫn đang ở mức khiêm tốn. Theo kết quả nghiên cứu của Công ty Economica Việt Nam cuối năm 2024, bình quân mỗi hộ chỉ nộp vào ngân sách nhà nước khoảng 2,7 triệu đồng tiền thuế/năm. Trong khi đó có tới hơn 100.000 hộ kinh doanh có doanh thu từ hơn 1.000 triệu đồng/năm vẫn áp dụng mức thuế khoán thường được xác định ở mức rất thấp so với kết quả kinh doanh thực tế. Đây thực sự là vấn đề chưa công bằng trước nghĩa vụ thuế giữa hộ kinh doanh với các doanh nghiệp trong cùng một thành phần kinh tế.
Một số khuyến nghị cần làm ngay:
Từ vị thế và thực trạng điển hình của kinh tế tư nhân, muốn kinh tế tư nhân phát triển và có thể đạt được các mục tiêu kỳ vọng mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra, trước mắt cần phải thực hiện một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, cần phải kiến tạo được một môi trường cạnh tranh minh bạch giữa các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó mà tạo điều kiện cho mọi cơ sở kinh doanh đều có thể thực hiện nghĩa vụ thuế công bằng; đồng thời góp phần tích cực vào việc ngăn chặn nạn buôn bán hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ. Giải pháp cơ bản nhất để góp phần kiến tạo được môi trường cạnh tranh minh bạch là bắt buộc mọi giao dịch phát sinh trong mua bán, trao đổi đều phải có hóa đơn như quy định tại Điều 2, khoản 1 của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ. Ở đây rõ ràng đã có độ trễ quá lớn (05 năm) giữa quy định và triển khai thực hiện quy định về hóa đơn, chứng từ của Chính phủ mà chưa có xử lý trách nhiệm của bất kỳ cơ quan nhà nước có liên quan nào. Nay Cục Thuế thuộc Bộ Tài chính lại đặt ra sự phân loại hộ kinh doanh theo doanh thu từ 01 tỷ đồng/năm trở lên mới áp dụng hóa đơn đã gây ra sự phản ứng rất mạnh từ xã hội. Những hộ kinh doanh lầm tưởng rằng bây giờ Chính phủ mới bắt buộc họ phải sử dụng hóa đơn trong hoạt động kinh doanh của mình dẫn đến suy bì giữa hộ có doanh thu 01 tỷ đồng với các hộ có doanh thu cận kề mức đó. Trong điều kiện hiện nay, khi hạ tầng công nghệ thông tin chưa đồng bộ thì trước hết tất cả các hộ kinh doanh có địa điểm cố định bắt buộc phải sử dụng hóa đơn đầu vào, đầu ra trong mọi giao dịch (trừ hộ kinh doanh có doanh thu dưới 100 triệu đồng/năm). Hành động này chỉ là khẳng định tính chính thống của khoản 1, Điều 2 của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP mà thôi. Thông qua đó mới có thể ngăn chặn có hiệu quả nạn hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ; đồng thời ngăn chặn rất tốt mức độ thất thu về thuế từ hoạt động của mọi cơ sở kinh doanh. Khi điều kiện hạ tầng công nghệ thông tin và chuyển đổi số đã bao phủ tất cả các vùng miền, tiến tới bắt buộc tất cả các hộ kinh doanh không có địa điểm cố định cũng phải sử dụng hóa đơn trong các giao dịch của mình.
Thứ hai, sự phản ứng của các hộ kinh doanh đối với việc bắt buộc sử dụng hóa đơn trong giao dịch chắc chắn sẽ xảy ra; và thực tế đã có xảy ra trong tháng 5 và 6 năm 2025. Nhưng đó là cách phản ứng tiêu cực nhằm bảo vệ lợi ích với tầm nhìn nhỏ hẹp của họ. Do đó, Đảng và Nhà nước phải kiên định trong chỉ đạo thực hiện áp dụng hóa đơn đối với hộ kinh doanh; đồng thời yêu cầu các cơ quan chức năng vào cuộc một cách tích cực từ tuyên truyền vận động đến hỗ trợ triển khai áp dụng hóa đơn, và kiên quyết xử lý đối với những người cố tình vi phạm. Từ ngày 01 tháng 7 năm 2025 khi chính quyền cấp xã mới hình thành và đi vào hoạt động việc triển khai áp dụng hóa đơn ở các hộ kinh doanh thuộc địa bàn cấp xã nên giao cho đảng bộ và chính quyền cấp này kết hợp với sự hỗ trợ đắc lực của các cơ quan tài chính (Thuế, Tài chính, Kho bạc) địa phương và trung ương trong quá trình triển khai thực hiện. Kể từ năm 2026 trở đi chính quyền cấp trên nên lấy chỉ tiêu tỷ lệ hộ kinh doanh đã áp dụng hóa đơn trên địa bàn làm tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện của đảng bộ và chính quyền cơ sở ở mỗi địa phương.
Triển khai quyết liệt thực hiện áp dụng hóa đơn đối với hộ kinh doanh, nếu thành công được ví như một mũi tên trúng nhiều đích, như: (i) là công cụ rất tốt để ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ; (ii) mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 có thể đạt được do các hộ kinh doanh so sánh và chọn lựa hoạt động theo mô hình doanh nghiệp có lợi hơn mô hình hộ kinh doanh; (iii) ngăn chặn được tình trạng thất thu thuế từ các doanh nghiệp do buộc các doanh nghiệp phải xuất hóa đơn cho các hộ kinh doanh bán lẻ; (iv) công bằng về thuế giữa các cơ sở kinh doanh sẽ được thiết lập khi doanh thu của mỗi cơ sở được minh bạch hơn, và số thu về thuế của các hộ kinh doanh chắc chắn sẽ tăng lên đáng kể; (v) trong trung hạn và dài hạn sự sáp nhập giữa các doanh nghiệp tư nhân chắc chắn sẽ diễn ra theo hướng tỷ trọng các doanh nghiệp lớn dần tăng, tỷ trọng các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ sẽ dần giảm do so sánh lợi thế về quy mô trong hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp.
PGS,TS Đặng Văn Du
Tài liệu tham khảo:
- Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết số 14-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, ngày 18 tháng 03 năm 2002;
- Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 10-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 03 tháng 06 năm 2017;
- Ban Chấp hành Trung ương (2025), Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, số 68-NQ/TW ngày 04 tháng 05 năm 2025;
- Chính phủ (2020), Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020, Quy định về hóa đơn, chứng từ;
- Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 18 tháng 12 năm 1986;
- Quốc hội (1990), Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế lợi tức, ngày 30 tháng 6 năm 1990;
- Quốc hội (1990), Luật Doanh nghiệp tư nhân, ngày 21 tháng 12 năm 1990;
- Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, ngày 15 tháng 4 năm 1992;
- Quốc hội (1994), Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, ngày 22 tháng 6 năm 1994;
- Quốc hội (2025), Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17 tháng 5 năm 2025, Về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân;
- Tổng cục Thống kê (2024), Số liệu thống kê kinh tế - xã hội Việt Nam.



