VNHN - Đã nhiều lần gặp gỡ, trò chuyện cùng Anh, tôi thật ấn tượng bởi hình ảnh thân thuộc, gần gũi của một “Người thầy thuốc chân đất” hay “nhà khoa học của núi rừng” ở anh. Sinh ra là người con dân tộc Sán Chay thuộc tỉnh Thái Nguyên cùng tuổi thơ lớn lên bên cây cỏ thiên nhiên, các bài thuốc thảo dược dân gian, niềm say mê dược liệu cỏ cây đã ngấm vào máu anh lúc nào không hay. Để rồi hôm nay, hành trình khám phá, nghiên cứu khoa học và phát triển nguồn dược liệu thiên nhiên của núi rừng đã trở thành cuộc sống của anh. Anh là NGƯT.PGS.TS Trần Văn Ơn - nguyên Trưởng Bộ môn Thực vật, Trường ĐH Dược Hà Nội, nguyên Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty TNHH MTV Dược Khoa, trường ĐH Dược Hà Nội (Bộ Y tế), Cố vấn Quốc gia Chương trình Quốc gia Mỗi xã Một sản phẩm (OCOP), Chuyên gia đầu ngành về thực vật dược của cả nước.
PV: Cơ duyên nào đã đưa Anh đến với những nghiên cứu quan trọng để khai thác, phát triển và ứng dụng nguồn dược liệu cây Dây thìa canh ?

PGS.TS Trần Văn Ơn
PGS.TS Trần Văn Ơn: Ngày đó, khi triển khai thực hiện đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu dược liệu và các bài thuốc có tác dụng hạ đường huyết” năm 2007, tôi đã phát hiện loài cây Gymnema thuộc họ Thiên lý có tác dụng hạ đường huyết của Ấn Độ ( tiếng Ấn Độ là Gumar). Biết rằng loài cây này phân bố tại vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm, trong đó có Việt Nam, tôi đã nhen nhóm ý tưởng về một sản phẩm trị bệnh tiểu đường từ cây này. Từ suy nghĩ đó, tôi cùng cộng sự đã đi dọc khắp đất nước, vượt qua nhiều khó khăn, thất vọng và thử thách để tìm ra loại cây có tác dụng hạ đường huyết được gọi là Dây thìa canh (tên khoa học là Gymnema sylvestre). Trở về trường ĐH Dược Hà Nội, tôi và cộng sự tiếp tục nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của nó và thấy nó có tác dụng mạnh hơn nhiều loài cây khác. Đến đây thì đề tài đó đã hoàn thành và có thể cất vào ngăn kéo ! Nhưng như vậy thì rất lãng phí một dược liệu quý như vậy. Vậy nên tôi tiếp tục nghiên cứu, chiết xuất vào bào chế để tạo ra các sản phẩm với các mức giá khác nhau phù hợp với nhiều tầng lớp bệnh nhân. Và năm 2009, sản phẩm cho người tiểu đường được chiết xuất từ cây Dây thìa canh của nước ta đã ra đời. Sau đó, chúng tôi lại tiếp tục nghiên cứu cách để thuần hóa loài cây này. Thế là chúng tôi lại lên đường, rong ruổi khắp nơi thu thập các nguồn gen, quét đất tìm hạt để nghiên cứu cách trồng trọt nó. Khi đã thuần hóa được cây Dây thìa canh, tôi quay lại tỉnh Thái Nguyên hình thành Công ty CP Sản phẩm thiên nhiên DK (DKnatura JSC), một công ty CP tại cộng đồng, và chuyển giao công nghệ trồng trọt, chế biến dược liệu từ cây này theo tiêu chuẩn GACP - WHO. Năm 2015, cây Dây thìa canh chính thức được đưa vào Dược điển Việt Nam. Không dừng lại ở đây, chúng tôi tiếp tục sàng lọc và phát hiện cây Dây thìa canh lá to (Gymnema latifolium) ở Việt Nam còn có tác dụng mạnh hơn. Đến nay, chúng tôi đã hoàn toàn thuần hóa được cây này và đưa vào trồng trọt theo định hướng organic, từ đó tạo nguyên liệu sạch để sản xuất chế phẩm viên nang cho người tiểu đường.

PGS.TS Trần Văn Ơn bên vườn cây Dây thìa canh lá to
PV: Là tác giả của mô hình OCOP - Mỗi xã một sản phẩm, anh đánh giá ra sao về ưu thế của Việt Nam khi triển khai mô hình này ?
PGS.TS Trần Văn Ơn: Qua nhiều năm tham gia phát triển dược liệu tại các vùng nông thôn, tôi nhận ra nông thôn Việt Nam ta sở hữu nhiều sản vật phong phú, đa dạng về văn hóa lại có cảnh quan thiên nhiên vô cùng đẹp. Nhưng những điều đó dường như bị bỏ qua trong các dự án phát triển và thay vào đó là du nhập các giống lạ hoắc, copycác mô hình phát triển của các nước khác mà ta khó có thể cạnh tranh. Thêm vào đó là tình trạng nguồn lao động bị dồn về quá nhiều ở các TP lớn, các KCN do quá trình phát triển CN hóa. Điều này làm các lợi thế ở vùng nông thôn nước ta có nguy cơ bị lãng quên. Qua tham khảo từ mô hình OVOP (One Village One Product ) được khởi xướng tại Nhật Bản từ năm 1979 và OTOP (One Tambon One Product) ở Thái Lan từ 2001, tôi nhận ra đây là thời điểm thích hợp để áp dụng nó tại Việt Nam. Mỗi vùng miền trên đất nước ta đều có nhiều đặc sản đặc trưng độc đáo, sở hữu những ngọn núi, con sông đẹp, hùng vĩ và nguồn nhân lực dồi dào trí tuệ, công nghệ truyền thông… Với tiềm năng đó, người dân có thể thực hiện được giấc mơ trở thành chủ nhân của quá trình phát triển, thay vì phải đi làm thuê bằng cách tập hợp nhau lại, lập ra những HTX, doanh nghiệp trên chính mảnh đất quê hương để làm giàu một cách đàng hoàng, chính đáng nhất. Tôi đã trao đổi và đề xuất triển khai mô hình phát triển này với nhiều lãnh đạo các cấp, từ Trung Ương đến huyện, nhưng đều bị từ chối vì cho rằng nó “không ra tấm ra món”. Tôi nhận ra rằng, thay vì nói mình nên làm gì đó và quyết tâm xây dựng mô hình này trong cộng đồng bằng các nguồn lực của mình và cộng đồng. Năm 2012, tôi có dịp gặp ông Phạm Minh Chính, khi đó là Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh. Tôi đưa ra đề xuất và nhanh chóng nhận được sự đồng thuận. Và thế là Quảng Ninh đã trở thành tỉnh đầu tiên áp dụng chương trình OCOP trên quy mô toàn tỉnh với sự tư vấn của Công ty DKpharma từ năm 2012, khi đó tôi làm Giám đốc. Thành công đạt được sau 3 năm triển khai đã khẳng định, chương trình OCOP là hướng đi đúng, sáng tạo trong phát triển hàng hóa theo chuỗi giá trị, gắn các tổ chức sản xuất với sản phẩm, phát huy những lợi thế, thế mạnh của địa phương, đưa nông dân chủ động hội nhập và tiếp cận kinh tế thị trường, góp phần nâng cao chất lượng Chương trình MTQG xây dựng NTM của tỉnh. Tôi rất vui và tự hào khi năm 2016, mô hình OCOP đã được nhân rộng trên toàn quốc, trở thành Chương trình Quốc gia vào năm 2018. Trong vai trò là Cố vấn của chương trình OCOP, theo tôi, điều cốt lõi khi triển khai chương trình này ở địa phương là cấp ủy phải vào cuộc, đội ngũ cán bộ, chính quyền cấp tỉnh phải cầu thị và nhận thức đúng về tầm quan trọng của chương trình này, không thể phát triển nó theo cách riêng lẻ của Bộ NN & PTNT. Hiện nay, chúng tôi vẫn đi khắp các tỉnh trên cả nước để triển khai chương trình hiệu quả, tạo ra các sản phẩm tại chỗ, kéo khách du lịch đến tham quan, tăng giá trị dịch vụ tại nông thôn, nhằm giúp bà con nông dân cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống.

PGS.TS Trần Văn Ơn luôn nhiệt huyết, miệt mài làm việc, nghiên cứu và kiên định với hành trình phía trước của mình.
PV: Theo Anh, hướng phát triển nền kinh tế kết hợp giữa thảo dược và du lịch ở nước ta thời gian qua đã mang lại những thành quả cụ thể ra sao ?
PGS.TS Trần Văn Ơn: Hiện nay, nếu bạn có dịp đi du lịch Sapa, bạn có thể thấy rất nhiều điểm dịch vụ tắm lá thuốc của người Dao đỏ rất thu hút du khách. Phương pháp này đã được nhiều người dân ở cộng đồng khai thác và kiếm tiền hiệu quả, nhưng bản thân người Dao đỏ - chủ nhân của bài thuốc tắm đó lại không hề được hưởng lợi từ sự thương mại hóa này. Đứng trước tình trạng trên, tôi và cộng sự đã vận động, thuyết phục bà con người Dao đỏ ở xã Tả Phìn góp tiền và công sức để thành lập Công ty CP Sản phẩm Bản địa Sapa (Sapanapro JSC.). Trong giai đoạn 4 năm đầu với nhiều khó khăn, Công ty vẫn đang trong “chu kỳ lỗ”, ngoài huấn luyện, bám sát cùng bà con, tôi và đồng nghiệp đã phải bỏ tiền túi để tiếp tục cấp vốn cho công ty hoạt động. Đến nay, công ty đã đứng vững trên địa bàn với sự tham gia của hơn 100 hộ gia đình người Dao đỏ, người Mông và cái tên “Thầy Ơn” đã rất quen thuộc với người dân nơi đây. Từ thực tiễn này, tôi đã nhìn thấy một hướng đi mới: Phát triển dược liệu ở Việt Nam theo hướng gắn với văn hóa, cảnh quan và du lịch. Lâu nay, dược liệu trong nước vẫn chưa phát triển xứng đáng với tiềm năng, không thể cạnh tranh với các dược liệu và sản phẩm dược liệu nhập khẩu. Dựa trên khai thác lợi thế so sánh về đa dạng sinh học, cảnh quan và văn hóa các dân tộc bản địa, tôi cho rằng phát triển dược liệu gắn với du lịch sẽ rất hiệu quả khi xu hướng “nền du lịch thứ ba” (du lịch tạo động lực) đang phát triển nhanh chóng trên thế giới. Để bảo tồn nguồn đa dạng gen cây thuốc ở các vùng miền khác nhau, ở các vùng miền có tiềm năng du lịch thì chúng ta phát triển dược liệu gắn với trục đó để tạo ra các vùng trồng dược liệu ở đó để khách du lịch có thể vào tham qua, trải nghiệm (như trồng, chăm sóc, thu hái dược liệu, tắm lá thuốc, ăn các đồ ăn, uống thức uống chế biến từ thảo dược, mua sắm dược liệu tại chỗ…). Chúng ta cũng cần xây dựng, hình thành các mô hình phát triển vùng trồng, chế biến, sản xuất tại cộng đồng, các điểm dừng chân, các vườn thảo dược…gắn với du lịch (văn hóa, trải nghiệm, nghỉ dưỡng/ chữa bệnh…); Hình thành các chuỗi giá trị, khởi đầu từ các HTX, doanh nghiệp tại cộng đồng, kết nối với các doanh nghiệp chủ chốt để kéo dài chuỗi giá trị; Liên kết với các doanh nghiệp du lịch tạo ra các chuỗi sản phẩm dược liệu sạch/ hữu cơ từ nông trại đến bàn ăn; Nghiên cứu phát triển đa dạng hóa sản phẩm; Đào tạo nghiệp vụ trong chuỗi giá trị… Sau thời gian dài thực hiện, đến nay, tôi và cộng sự đã xây dựng, hình thành 4 “trục văn hóa thảo dược” bằng cách hình thành hàng chục HTX và SMEs (DN nhỏ và vừa) tại cộng đồng. Đó là các “Trục văn hóa - thảo dược Ngọa Vân – Yên Tử” ở Quảng Ninh; “Trục văn hóa thảo dược Cao nguyên đá Đồng Văn”, kéo dài từ Tp Hà Giang đến các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc với bà con người Dao, Mông, Tày, Nùng; “Trục văn hóa - thảo dược Hoàng Liên Sơn” – khởi đầu tại Lào Cai, đến Sapa, Bát Xát, Y Tý…với bà con người Dao, Mông, Giáy, Hà Nhì; “Trục văn hóa - thảo dược “Việt Bắc” kéo dài từ Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng và điểm cuối là công viên địa chất toàn cầu Non nước (Cao Bằng) với bà con người Tày, Dao; các trục văn hóa thảo dược Tây Bắc với bà con người Thái; Quảng Nam với bà con người Ca Dong, Cor, Xơ Đăng…cũng đang bắt đầu được triển khai. Dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tôi cho rằng, nếu chúng ta nghiêm túc tập trung dành nhiều nguồn lực và trí tuệ thực hiện, có thể tạo ra nền kinh tế mới với giá trị hàng tỉ đô la. Tôi sẽ luôn chào đón những người có cùng chí hướng, mục tiêu để tiếp tục đồng hành trong lĩnh vực này, và tôi sẽ dành cả cuộc đời mình để vững bước trên con đường mà tôi đã lựa chọn !

PGS.TS Trần Văn Ơn dành nhiều thời gian, tâm huyết tham gia công tác tư vấn triển khai thực hiện chương trình OCOP, đồng hành cùng người dân ở mọi miền Tổ quốc.
PV: Xin trân trọng cám ơn Anh vì buổi trò chuyện vô cùng ý nghĩa ! Chúc Anh luôn mạnh khỏe và tràn đầy ngọn lửa nhiệt huyết trên hành trìnhkhám phá, xây dựng và phát triển nền kinh tếmới tuy nhiều thử thách mà đầy nhân văn, cao quý !



