VNHNO - Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 10 tháng đầu năm 2018 tăng ổn định, gần chạm mốc kỷ lục của cùng kỳ năm 2017. Đây là tín hiệu đáng mừng dự báo một năm thành công của thu hút FDI. Tuy nhiên, nhiều ý kiến vẫn bày tỏ lo ngại về chất lượng các nguồn vốn FDI, đề xuất cần có những thay đổi chính sách để cải thiện.
Ảnh minh họa
Vốn đầu tư nước ngoài áp sát ngưỡng kỷ lục
10 tháng đầu năm 2017, dòng vốn FDI vào Việt Nam đạt mức kỷ lục với trên 28 tỷ USD, vượt kế hoạch cả năm. Cùng kỳ năm nay, thu hút FDI cũng đã đạt xấp xỉ con số đó.
Theo báo cáo mới nhất của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính chung 10 tháng năm 2018, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 27,9 tỷ USD, bằng 98,8% so với cùng kỳ năm 2017. Các dự án FDI đã giải ngân 15,1 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm 2018, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước.
Cùng với giải ngân vốn FDI, các chỉ tiêu về thu hút vốn cũng cho thấy thị trường Việt Nam vẫn rất hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. FDI đã được rót vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều nhất với tổng số vốn đạt 13,2 tỷ USD, chiếm 47,5% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Bất động sản đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư 5,7 tỷ USD, chiếm 20,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ 3 là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,3 tỷ USD, chiếm 8,5% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Có 105 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Nhật Bản đứng vị trí thứ nhất với tổng vốn đầu tư 7,6 tỷ USD, chiếm 27,5% tổng vốn đầu tư. Các vị trí tiếp theo là Hàn Quốc, Singapore chiếm lần lượt 23,4% và 14% tổng vốn đầu tư.
Trong 59 tỉnh, thành phố được nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn, kỳ này, Hà Nội tiếp tục thu hút nhiều vốn FDI nhất với tổng số vốn đăng ký 6,15 tỷ USD, chiếm 22% tổng vốn đầu tư, cách biệt với vị trí thứ hai là TP. HCM 4,6 tỷ USD.
Với kết quả khả quan tính đến thời điểm hiện tại, nhiều chuyên gia kinh tế dự đoán con số thu hút đầu tư nước ngoài của cả năm hoàn toàn có thể đạt 30 tỷ USD, thậm chí cao hơn.
Đau đáu vấn đề cải thiện chất lượng dòng vốn
Tuy nhiên, tại kỳ họp Quốc hội lần này, nhiều đại biểu vẫn bày tỏ lo ngại về chất lượng các nguồn vốn FDI, nhất là những vấn đề như chuyển giao công nghệ, quản trị, chuyển giá...
Đại biểu Nguyễn Như So (đoàn Bắc Ninh) thẳng thắn cho rằng, dòng vốn FDI vào Việt Nam khối lượng lớn nhưng chất lượng lại khiêm tốn, ít chuyển giao công nghệ và chưa có mối liên kết với các công ty trong nước.
Đại biểu dẫn chứng, chỉ có 5% doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam sử dụng công nghệ cao, còn chủ yếu là gia công ở vị trí cuối của chuỗi giá trị. Hơn nữa, việc đóng góp FDI vào ngân sách không tương xứng với mức độ ưu đãi cao mà họ được nhận, gây ra mất bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Mặc dù được miễn giảm 92% tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng các doanh nghiệp FDI lại đóng góp vào ngân sách khá thấp, chỉ chiếm 20,78% GDP và 13,9% tổng thu ngân sách.
Ông cũng nêu câu hỏi, có hay không tình trạng doanh nghiệp lỗ giả, lãi thật, chuyển giá, trốn thuế, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, tác động xấu đến môi trường đầu tư.
Để thu hút và sử dụng FDI hiệu quả, đại biểu Nguyễn Như So kiến nghị cần cải tổ lại chiến lược thu hút nguồn vốn FDI. Cần phải nhận diện đúng vấn đề mà các tập đoàn đa quốc gia cần.
Trong đó, ưu đãi đầu tư chỉ là yếu tố bổ sung, không phải là yếu tố quan trọng nhất, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp mà chính là sự ổn định về kinh tế, chính trị, chi phí lao động, thuế, khuôn khổ pháp lý, chất lượng cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực của quốc gia.
Ông cũng kiến nghị Quốc hội cần có cơ chế đột phá, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển để tạo đối trọng đủ mạnh, hợp tác bình đẳng. Bởi theo ông, lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 98,1% là đối tượng chính tạo nguồn thu ngân sách, quyết định sự bền vững của phát triển kinh tế lại khó tiếp cận ưu đãi, đặc biệt là vốn.
Còn theo đại biểu Phạm Trọng Nhân (Đoàn Bình Dương), sự rục rịch hồi hương của FDI bởi hậu thuẫn của kỷ nguyên robot, người máy và chủ nghĩa bảo hộ làm cho lợi thế lao động giá rẻ không còn ý nghĩa. Từ đó, những chính sách thu hút đầu tư dù hấp dẫn thế nào cũng không phát huy nhiều tác dụng.
Do đó, để đi tắt, đón đầu và vượt lên, theo ông phải hiểu rõ xu hướng công nghệ trong mô hình quản trị và mô hình kinh doanh.
"Dù thừa quyết tâm nhưng phải tỉnh táo, biết mình, biết ta để không chỉ bước đi vững chắc mà trên hết phải xây dựng môi trường thể chế để khoa học công nghệ trở thành người dẫn đường mở lối đi đến thịnh vượng, nhận diện cho được lợi thế cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số, tìm hướng đi thích hợp để lựa chọn mô hình tăng trưởng cho đất nước một cách thực chất hơn," đại biểu Phạm Trọng Nhân nêu ý kiến.
Đại biểu Trần Hoàng Ngân (Đoàn TPHCM) cho rằng: "Trước đây chúng ta rất thành công trong việc kết nối doanh nghiệp với ngân hàng để khơi thông dòng vốn, giờ phải kết nối được doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI để có thể tận dụng được công nghệ của các nước tiên tiến để nếu như các doanh nghiệp nước ngoài có rút vốn ra khỏi Việt Nam thì vẫn có thể chủ động được".
Trên phương diện khác, ông Kyle F. Kelhofer, Giám đốc quốc gia cấp cao Việt Nam, Campuchia và Lào của Công ty Tài chính quốc tế (IFC) cho rằng, cần hiện đại hóa công tác xúc tiến đầu tư, chuyển từ xúc tiến thụ động sang chủ động có mục tiêu. Đồng thời, các chỉ số năng lực chính của Việt Nam về FDI cũng cần được thay đổi bằng cách chuyển từ báo cáo về số lượng dự án và giá trị vốn cam kết, giải ngân sang tăng cường báo cáo, theo dõi chất lượng vốn FDI tiếp nhận, tính theo công nghệ, mức độ đổi mới, giá trị gia tăng, khả năng củng cố chuỗi giá trị và khai thác nguồn cung trong nước…
"Cũng cần củng cố thể chế, xây dựng cơ quan xúc tiến đầu tư nước ngoài thế hệ mới, có thể tách chức năng quản lý Nhà nước và xúc tiến đầu tư để thực hiện chiến lược thu hút FDI thế hệ mới", ông Kyle đề xuất./.