Tuy nhiên, quá trình này vẫn đang đứng trước nhiều thách thức. Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số thành công và phát huy các lợi ích tích cực của chuyển đổi số đối với phát triển xã hội bền vững cần tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc biệt là các nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số để có những cơ chế, chính sách hợp lý. Với các phương pháp nghiên cứu khoa học thực nghiệm, các tiếp cận xã hội học về quá trình chuyển đổi số sẽ là cơ sở thực tiễn góp phần hỗ trợ các hoạch định chính sách về chuyển đổi số khả thi và hiệu quả.
1. Đẩy mạnh chuyển đổi số theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Nắm bắt xu hướng chuyển đổi số của thế giới, Đại hội XIII của Đảng, ta xác định chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược của nước ta trong giai đoạn 2021-2030: “Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”(1). Đồng thời: “Chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số”(2). Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Đảng ta đã đề ra đột phá chiến lược: “Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh...; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ số”(3).
Trước đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 52/NQ-TW với mục tiêu tổng quát: “Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái”(4).
Ngày 03-6-2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, Việt Nam phấn đấu đến năm 2025, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của cơ quan quản lý nhà nước, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân.
Văn bản nêu rõ: “Để quá trình chuyển đổi số thành công trước tiên phải có sự chuyển đổi về nhận thức trong xã hội. Một cơ quan, tổ chức có thể tiến hành chuyển đổi số ngay thông qua việc sử dụng nguồn lực, hệ thống kỹ thuật sẵn có để số hóa toàn bộ tài sản thông tin của mình, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức và chuyển đổi các mối quan hệ từ môi trường truyền thống sang môi trường số. Mỗi cơ quan, tổ chức và cả quốc gia cần tận dụng tối đa cơ hội để phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, trong đó, việc xác định sớm lộ trình và đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương có ý nghĩa sống còn, là cơ hội để phát triển các ngành, lĩnh vực, địa phương và nâng cao thứ hạng quốc gia”(5).
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam có nhiều nỗ lực hoàn thiện chính sách thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, trong đó có Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Sở hữu trí tuệ… Việc thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia; Trung tâm Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia; Trung tâm Đổi mới sáng tạo về internet vạn vật… là nỗ lực lớn, nhằm hỗ trợ nền tảng chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo cho các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành chương trình hay chiến lược về Chuyển đổi số quốc gia, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nhận thức về chuyển đổi số đồng hành cùng các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam chủ động khai thác triệt để các cơ hội mà cuộc cách mạng công nghệ mang lại và bứt phá vươn lên, thay đổi thứ hạng phát triển.
Chuyển đổi số ở chiều cạnh xã hội học nhấn mạnh nhiều đến sự biến đổi mang tính toàn diện về văn hóa, tổ chức và quan hệ xã hội. Chuyển đổi số không chỉ tác động ở khía cạnh làm thay đổi cách thức và hiệu quả quản lý, lao động, vận hành của tổ chức xã hội mà phức tạp hơn, quá trình này có những tác động tiêu cực và tích cực gần như đồng thời đến các chủ thể khác nhau trong xã hội.
2. Nghiên cứu về chuyển đổi số ở Việt Nam từ tiếp cận xã hội học
Thứ nhất, nghiên cứu, ứng dụng xã hội học trong tiến trình chuyển đổi số, là yêu cầu khách quan
Thực tiễn cho thấy vai trò, sức mạnh của khoa học - công nghệ nói chung và khoa học xã hội học nói riêng trong đời sống xã hội ngày càng gia tăng; nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số. Chuyển đổi số đã và đang diễn ra mạnh mẽ và tác động đến xã hội rất lớn(6). “Chuyển đổi số dựa trên công nghệ số nhưng công nghệ số chỉ là công cụ, con người mới là nhân tố quyết định chuyển đổi số thành công hay không. Một quốc gia hay doanh nghiệp, tổ chức có chuyển đổi số thành công hay không phụ thuộc vào 3 điều kiện theo thứ tự ưu tiên: (1) Thể chế, đặc biệt là vai trò của người đứng đầu, chuyển đổi số là cuộc cách mạng về thể chế; (2) Nguồn nhân lực bao gồm cả chuyên gia về công nghệ thông tin lẫn con người phải có kỹ năng số, cả người dân sử dụng dịch vụ lẫn doanh nghiệp, sản xuất và; (3) Hạ tầng số mà trong đó dữ liệu và kết nối. Trong cả 3 điều kiện nêu trên đều có vấn đề xã hội học”(7). “Các chuyên gia xã hội học chính là những người phân tích những mối quan hệ giữa con người với môi trường số để nhìn ra các nhu cầu giá trị hữu hiệu. Rõ ràng, ai cũng biết vai trò của trí tuệ nhân tạo, nhưng làm thế nào để trí tuệ nhân tạo vào được, tạo thêm được nhiều dữ liệu có giá trị mới, giá trị thông minh thì đó không phải là vấn đề công nghệ mà cuối cùng vẫn là con người. Vấn đề là con người sẽ dùng trí tuệ nhân tạo như thế nào để đạt được mục tiêu và đem lại giá trị gia tăng trong những tập hợp dữ liệu mà chúng ta cần có. Điều này phải được giải quyết từ phương diện khoa học xã hội học”(8).
Do đó, nhu cầu nghiên cứu và ứng dụng khoa học xã hội học trong tiến trình chuyển đổi số của đất nước ngày càng được đặt ra cấp bách, có tính tất yếu khách quan.
Thứ hai, nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số là một chuyên ngành khoa học.
Ở chiều cạnh tiếp cận xã hội học, chuyển đổi số là quá trình biến đổi các thành tố cấu thành nên cấu trúc xã hội như các vị thế, vai trò xã hội, các nhóm xã hội, mạng lưới và quan hệ xã hội, hệ thống thiết chế xã hội, hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội… trong các tương tác và quan hệ xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số.
Chuyển đổi số ở chiều cạnh xã hội học nhấn mạnh nhiều đến sự biến đổi mang tính toàn diện về văn hóa, tổ chức và quan hệ xã hội. Chuyển đổi số không chỉ tác động ở khía cạnh làm thay đổi cách thức và hiệu quả quản lý, lao động, vận hành của tổ chức xã hội mà phức tạp hơn, quá trình này có những tác động tiêu cực và tích cực gần như đồng thời đến các chủ thể khác nhau trong xã hội.
Thứ ba, một số vấn đề cần quan tâm từ hướng tiếp cận xã hội học về chuyển đổi số
Hiện nay tại Việt Nam quá trình chuyển đổi số đã tạo ra những tiền đề có tính chất tất yếu, khách quan và phổ biến để tiến hành các nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số. Trong khuôn khổ bước đầu có thể xác lập một số vấn đề cần quan tâm từ hướng tiếp cận xã hội học về chuyển đổi số như sau.
Một là, dựa trên các đặc trưng của xã hội học để xác lập các nguyên tắc mục tiêu nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số: “(1) Tính khách quan, lôgíc đặt trong bối cảnh xã hội; (2) Tính thực chứng, có độ tin cậy cao khi đưa ra các kết luận nghiên cứu; (3) Tính duy vật biện chứng trong các nhận định, đánh giá; (4) Tính lý giải thấu hiểu dựa trên các bối cảnh văn hóa để giải thích, tìm kiếm sự hiểu biết về bản chất của các hiện tượng xã hội; (5) Các phương pháp nghiên cứu hiện đại, liên ngành: quan sát tham dự; quan sát không tham dự; phiếu anket; phiếu phát vấn; thảo luận nhóm tập trung; phỏng vấn sâu; phân tích nội dung tài liệu; phân tích số liệu thống kê; nghiên cứu trường hợp...; (6) Khoa học đề cao tính chỉnh thể, hệ thống, toàn diện, thực chứng về hiện tượng, sự kiện, quá trình xã hội; (7) Khoa học đề cao sự chính trực, trung tính”(10).
Hai là, đối tượng trong nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số ở Việt Nam chính là nghiên cứu về quá trình “số hóa” toàn bộ phương thức hoạt động của con người và xã hội trong những bối cảnh cụ thể. Quá trình “số hóa” làm thay đổi sâu sắc, toàn diện về các khuôn mẫu hành vi, giá trị chuẩn mực xã hội, các quan hệ xã hội và hoạt động xã hội. Nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số là nghiên cứu về các mối quan hệ xã hội và tương tác xã hội giữa con người và công nghệ trong những bối cảnh xã hội cụ thể. Do đó, nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số ở Việt Nam cần tập trung nghiên cứu chuyển đổi số ở cấp độ hệ thống xã hội. Đồng thời, cần phải đặt nền tảng chuyển đổi số trong mối quan hệ biện chứng với các nền tảng khác như: nguồn nhân lực, hệ thống cơ chế chính sách, văn hóa. Các nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số cũng cần làm rõ mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo với tính nhân văn, gia tăng phúc lợi, sự hài lòng và hạnh phúc cho con người, thúc đẩy xã hội phát triển nhanh, hài hòa và bền vững trong bối cảnh và mục tiêu phát triển của đất nước đến năm 2045.
Ba là, “xã hội học là khoa học rất quan tâm đến việc phát triển lý thuyết và vận dụng lý thuyết để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội. Xã hội học hình thành và phát triển một hệ thống các lý thuyết để giải thích một cách khoa học và bản chất những hiện tượng xã hội, trong đó có các lý thuyết giải thích mối quan hệ giữa tính chủ động và tích cực của con người với tính quy định chặt chẽ của cấu trúc xã hội. Song, con người có vai trò tích cực chủ động nhất định, họ tạo ra xã hội, xã hội là do con người thiết kế nên, nhưng đồng thời họ cũng chịu sự ràng buộc của môi trường, cấu trúc xã hội”(11).
Các tiếp cận của xã hội học xem xét hành vi, hành động của cá nhân, nhóm xã hội trong bối cảnh xã hội cụ thể, những sự tác động của xã hội khiến họ có hành vi, hành động xã hội như vậy(12). Điều này có nghĩa là những lựa chọn, quyết định hành động cá nhân, nhóm xã hội thường phụ thuộc vào bối cảnh xã hội, cấu trúc xã hội.
Do đó, khi nghiên cứu để tìm hiểu những vấn đề liên quan đến hành vi tham gia vào tiến trình chuyển đổi số của cá nhân, nhóm xã hội cần đặt trong bối cảnh xã hội, văn hóa, cấu trúc xã hội cụ thể, cũng như cần xem xét ảnh hưởng, tác động của các chính sách, pháp luật của nhà nước…; tránh quan điểm mang tính phiến diện, bề ngoài khi cho rằng, hành vi của cá nhân liên quan đến chuyển đổi số đơn thuần là do chính cá nhân, nhóm xã hội quyết định.
Tư duy và phương pháp xã hội học phải tìm kiếm, phát hiện các tác động và vấn đề sâu xa mang tính bản chất và quy luật của quá trình chuyển đổi số. Đồng thời, để chuyển đổi số đạt được những kết quả tích cực như mục tiêu đề ra luôn cần tiếp cận, quan tâm xử lý các vấn đề liên quan đến chuyểnđổi số ở cả hai chiều cạnh. Thí dụ như: yếu tố sáng tạo, năng lực, tinh thần trách nhiệm và vai trò của cá nhân con người… trong mối tương quan với môi trường, cấu trúc xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật...
Bốn là, trong kỷ nguyên số đòi hỏi phải xác lập được tính tổng thể các quan hệ tương tác của tổ chức để hoạch định được chiến lược phù hợp; các mạng lưới có một vai trò quan trọng trong việc xác định sự tồn tại và phát triển bền vững của tổ chức cũng như hiệu quả hoạt động của tổ chức. Việc xác lập rõ ràng các bên liên quan sẽ xác lập các nguồn lực của tổ chức, tác động đến việc thiết lập các quy trình, khả năng sẵn sàng của tổ chức trước các cơ hội, khủng hoảng, rủi ro hay xung đột và ảnh hưởng của tổ chức. Các bên liên quan trong quá trình thực hiện chuyển đổi số có thể phân định thành bốn nhóm: (1) Nhóm nền tảng: có ảnh hưởng mang tính chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của tổ chức; (2) Nhóm vận hành: có ảnh hưởng mang tính cơ chế đối với sự tiến triển và vận hành của tổ chức; (3) Nhóm phát triển: có ảnh hưởng mang tính cách thức đối với phương thức và các hoạt động cụ thể của tổ chức; (4) Nhóm phương tiện: có ảnh hưởng mang tính chọn lựa đối với các phương tiện, công cụ,... mà tổ chức chọn lựa để vận hành và quản trị.
Từ tiếp cận mạng lưới xã hội - mối quan hệ xã hội của cá nhân, nhóm xã hội trong cấu trúc hệ thống tổng thể nhận thấy nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số cần quan tâm nghiên cứu về mạng lưới này. Chuyển đổi số làm biến đổi đa diện các tương tác xã hội, quan hệ xã hội của Việt Nam. Với sự hỗ trợ của công nghệ số, giao tiếp của con người Việt Nam sẽ có những biến chuyển nhanh chóng, mới mẻ, đa dạng và không có giới hạn. Các hình thức giao tiếp mặt đối mặt, trực tiếp sẽ chuyển sang giao tiếp gián tiếp, trực tuyến ngày càng nhiều hơn, với khối lượng thông tin ngày càng đồ sộ hơn, hình thành phương tiện giao tiếp mới rất cần các nghiên cứu xã hội nhận diện các đặc trưng, chức năng, hiệu quả của các phương tiện giao tiếp với quá trình chuyển đổi số và phát triển xã hội bền vững.
Năm là, xã hội học vận dụng cách tiếp cận cơ cấu xã hội, thiết chế xã hội để giải thích và quản lý các hiện tượng xã hội nảy sinh trong quá trình hiện đại hóa và phát triển của xã hội. Chuyển đổi số đã, đang và sẽ bị chi phối đồng thời bởi hệ thống thiết chế xã hội: thiết chế pháp luật; thiết chế chính trị; thiết chế kinh tế; thiết chế gia đình; thiết chế giáo dục; thiết chế đạo đức; thiết chế văn hóa; thiết chế truyền thông đại chúng; thiết chế dư luận xã hội... Do vậy, những kết quả hay bất cập, thuận lợi hay khó khăn, đề xuất giải pháp liên quan đến chuyển đổi số luôn cần được phân tích một cách tổng thể từ chính các thiết chế xã hội có liên quan. Chẳng hạn, phải truy tìm nguyên nhân sâu xa nhất làm cho tiến trình chuyển đổi số kém hiệu quả xuất phát từ những thiết chế xã hội nào; từ đó đưa ra các giải pháp từ chính thiết chế xã hội đó.
Các tiếp cận của xã hội học từ góc độ cơ cấu xã hội, xem xét các nhóm xã hội trong cấu trúc tổng thể của hệ thống xã hội, do đó khi nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số cần quan tâm đến tất cả các đối tượng xã hội, đặc biệt là những nhóm xã hội có nguy cơ tụt hậu, đứng bên ngoài chuyển đổi số. Từ đó sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn tính tất yếu khách quan và lợi ích của chuyển đổi số; đồng thời có những gợi mở sáng tỏ hơn cho các giải pháp hướng đến mọi người cùng có cơ hội tiếp cận và thành công trong quá trình chuyển đổi số.
Sáu là, các phương pháp nghiên cứu thực nghiệm của xã hội học cho phép kết quả nghiên cứu kết luận được vấn đề nghiên cứu mang tính tổng thể thông qua các đơn vị mẫu nghiên cứu được lựa chọn theo các tiêu chí khoa học, cụ thể(13). Do đó, khi nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số cần đặt trong mối tương quan với các chủ thể tham gia quá trình này, nhà nghiên cứu cần tìm ra những khuôn mẫu xã hội chung thông qua những hành vi, quan hệ xã hội cụ thể của từng nhóm, cộng đồng xã hội. Mỗi nhóm xã hội, cộng đồng xã hội có những khuôn mẫu hành vi, quan hệ xã hội nhất định. Việc nhận ra những khuôn mẫu đó giúp chúng ta hiểu bản chất của khả năng tiếp cận chuyển đổi số của từng nhóm xã hội, tổ chức và cộng đồng xã hội.
Bảy là, từ góc độ tiếp cận tư duy xã hội học có thể nhận thấy, bên cạnh mặt tích cực, tư duy xã hội học cần quan tâm đến những hệ quả xã hội, dự báo xu hướng và đề xuất giải pháp kiểm soát, hạn chế những tác động tiêu cực của chuyển đổi số. Do đó, nghiên cứu xã hội học về chuyển đổi số cần đặt trong mối quan hệ bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp của đời sống xã hội trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - công nghệ, quản lý xã hội…. với những thời cơ và thách thức trong quá trình chuyển đổi số.
Chẳng hạn, kỷ nguyên chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo cũng có thể dẫn đến tình trạng mất/thiếu việc làm đối với những người lao động có trình độ học vấn - nghề nghiệp thấp hoặc không theo kịp sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ; triệt tiêu lao động giản đơn, nhất là người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và thủ công. Điều này có thể sẽ tạo ra thất nghiệp và gây bất ổn xã hội.
Tuy nhiên, đi kèm với nguy cơ mất việc làm vào máy móc, chính quá trình chuyển đổi số sẽ tạo điều kiện cho sự xuất hiện các mô hình mới, giúp giải quyết các vấn đề của thị trường lao động.
Việc ứng dụng robot và tự động hóa sẽ tạo ra nhiều việc làm mới với mức lương cao hơn những việc làm mà nó đã thay thế. Nói cách khác, chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo khôngnhững làm thay đổi cung cách tổ chức, điều hành và quản trị xã hội mà còn làm thay đổi cả cách suy nghĩ, ứng xử, lối tư duy của con người... Đồng thời, từ góc nhìn xã hội học, chúng ta cần có nhận thức đầy đủ, toàn diện để kịp thời hành động, có giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu những hệ quả xã hội không mong muốn do chính quá trình chuyển đổi số đưa đến.
_________________
(1), (2), (3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 200-201, 204, 221.
(4) Bộ Chính trị: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-9-2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
(5) Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 13/06/2020 về phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
(6), (7) Nguyễn Hữu Minh: “Cả 3 điều kiện để thực hiện chuyển đổi số đều có vấn đề xã hội học”, https://vietbao.vn/, truy cập ngày 23-11-2022.
(8) Vũ Hoàng Liên: “Sự vào cuộc của các nhà xã hội học trong thế giới số là vô cùng quan trọng”, https://www.viettimes.vn, truy cập ngày 23-11-2022.
(9) Marres N,: Digital Sociology.Malden, MA: Polity Press, 2017, p.34-35.
(10), (11) Đỗ Văn Quân: Đổi mới công tác dân vận từ hướng tiếp cận xã hội học, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7-2019.
(12) (13) Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (chủ biên): Xã hội học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2006, tr.165, 111.
TS ĐỖ VĂN QUÂN
TS ĐẶNG THỊ MINH LÝ
Viện Xã hội học và phát triển,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh