16/12/2024 lúc 03:35 (GMT+7)
Breaking News

Một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Nguồn nhân lực chất lượng cao  là nguồn nhân lực có trí tuệ, tay nghề, năng lực tốt, được đào tạo cơ bản, chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn đất nước, của thị trường lao động hiện nay. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là yếu tố quan trọng, nòng cốt bảo đảm cho nền kinh tế phát triển, hội nhập sâu rộng, bền vững, ổn định trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức thời đại mới. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Trong thời gian tới, để sớm hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2030 và nằm trong nhóm nước phát triển thu nhập trung bình cao vào năm 2045, thì cần xác định rõ nhận thức xuyên suốt của Đảng về vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao, kết quả đạt được khi triển khai thực trong thực tế, những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết để từ đó đề ra những giải pháp sát thực với thực tế, hoàn thành mục tiêu đề ra.

Nhận thức của Đảng về vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao

Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và Cách mạng 4.0, khi nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức thì nguồn nhân lực (NNL), đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC) ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực đối với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế, trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, chiến lược phát triển con người luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm, coi đó là vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

Trải qua các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế, nhận thức của Đảng về chiến lược nâng cao chất lượng NNL, phát huy tài năng, trí tuệ của con người Việt Nam để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đúng đắn, đầy đủ hơn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Ðảng ta đã đề ra quan điểm: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [1], và “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [1]. Ðồng thời, nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của NNLCLC trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng và lợi thế cạnh tranh quốc tế đã thuộc về công nghệ, tri thức, lao động có kỹ năng..., tại Ðại hội X, Ðảng ta đã đề ra chủ trương “Ðổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao... chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” [2]. Và để thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy mạnh CNH, HÐH gắn với kinh tế tri thức phải phát triển NNLCLC, tức là chuyển hướng chiến lược phát triển NNL từ theo chiều rộng sang chiều sâu, Ðảng chủ trương phải đặc biệt coi trọng và nâng cao chất lượng NNL, cần đặc biệt coi trọng phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN), giáo dục và đào tạo (GD&ĐT); thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, …; thu hút chuyên gia nước ngoài đặc biệt là chuyên gia giỏi người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tham gia giảng dạy, phát triển KH&CN tại Việt Nam. Để phát triển NNLCLC, Đảng nhấn mạnh phải đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ cơ cấu chuyển đổi lao động, phát triển nhanh NNLCLC, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài; nhanh chóng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền.

Tại Ðại hội XI của Ðảng, xuất phát từ yêu cầu thực hiện mục tiêu tổng quát là: Đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Ðảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng đồng bộ; và phát triển nhanh NNL, nhất là NNLCLC, trong đó phát triển và nâng cao chất lượng NNLCLC được xác định là “yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [3]. Khâu đột phá này chính là bước ngoặt quan trọng nhằm tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh: tri thức - trí tuệ của dân tộc Việt Nam để thích ứng và đột phá phát triển trong một thế giới năng động, của thời đại KH&CN phát triển như vũ bão; và chỉ có như vậy, nền kinh tế nước ta mới có được sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả, có chất lượng và bền vững; mới có thể thoát ra khỏi nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình đang hiện hữu và sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội XII (2016), khẳng định tập trung phát triển NNLCLC tiếp tục là một trong những khâu đột phá chiến lược. Đảng nhấn mạnh: “phải thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội”[4].

Đại hội XIII Đảng tiếp tục khẳng định con người là trung tâm của sự phát triển và kiên định phát triển con người Việt Nam toàn diện: “Coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”. Đồng thời khẳng định: “Mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”[5]; thực hiện “phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển” [5]. Đại hội XIII chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”[5].

Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, quan điểm của Đảng về phát triển nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao thể hiện sự xuyên suốt, toàn diện và có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực trong bối cảnh mới của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhờ đó, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao thời gian qua đã đạt được một số kết quả khả quan.

Kết quả quá trình thực hiện chủ trương về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thời gian qua ở nước ta

Theo thống kê, dân số nước ta hơn 98 triệu người, trong đó tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chiếm khoảng 68,7%. Đây là một lợi thế vô cùng thuận lợi để chúng ta khai thác, sử dụng vào các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ cho sự nghiệp dựng xây, kiến thiết đất nước. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chiếm khoảng 64,5% (theo đánh giá của Tổng cục Thống kê quý I/2021); năng suất lao động của Việt Nam được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30 - 35%)2.

Thông cáo báo chí về tình hình lao động, việc làm quý I/2021 của Tổng cục Thống kê cho biết, trong tổng số 49,9 triệu lao động có việc làm, lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 39,5%, tương đương 19,7 triệu người, tiếp đến là lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 32,3%, tương đương 16,1 triệu người. Lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng thấp nhất, 28,2%, tương đương 14,1 triệu người. So với quý IV/2020 và quý I/2021, tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đều tăng. Ngược lại, tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng quý I lại có dấu hiệu giảm, so với cả quý trước và cùng kỳ năm trước (tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp tăng tương ứng là 0,8 điểm phần trăm và 0,2 điểm phần trăm; tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng giảm tương ứng là 1,3 điểm phần trăm và 0,7 điểm phần trăm). Tỷ lệ lao động qua đào tạo được cải thiện, ước đạt 64,5% năm 2020, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 24,5%, tăng so với năm 2015 (19,9%)3.

Những con số trên đã chứng minh NNLCLC đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện những chỉ tiêu, nội dung về phát triển kinh tế, xã hội ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. NNL ở đây chính là sự đóng góp của mỗi người ở những lĩnh vực, ngành hoạt động khác nhau, dưới tác động của những cơ chế, chính sách, NNL này đã, đang và sẽ được đánh thức, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh đang bị ngủ quên, hoặc chưa được sử dụng đúng lúc, đúng nơi một cách hiệu quả, hợp lý nhất.

Một số vấn đề đặt ra về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay

Bên cạnh kết quả đã đạt được, phát triển NNLCLC hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế chưa đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là những đòi hỏi của thị trường lao động thời kỳ hội nhâp, cụ thể:

Thứ nhất, việc phát triển NNL nói chung và nhân lực chất lượng cao nói riêng chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của xã hội

Nhân lực nói chung và nhân lực chất lượng cao nói riêng mặc dù được xác định là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước, nhưng lại chưa được quan tâm phát triển cả về đào tạo kỹ năng, chăm sóc sức khỏe và giáo dục tâm hồn, đạo đức một cách đầy đủ. Quan niệm, nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của nhân lực, nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh tế xã hội ở các cấp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp/người sử dụng lao động nhìn chung còn hời hợt, chưa thấu đáo. Tình trạng có quan điểm nhưng thiếu định hướng, có chủ trương nhưng thiếu hành động và có chính sách nhưng thiếu nguồn lực còn phổ biến. Coi GD&ĐT là quốc sách, song việc tổ chức thực hiện như thế nào cho xứng tầm lại chưa được quan tâm đúng mức. Trong các chủ trương, quyết định đầu tư của các dự án/công trình chủ đầu tư thường chỉ quan tâm đến đất đai, vốn, công nghệ, mà ít quan tâm đến nhân lực/lao động; thiếu các kế hoạch về NNL.

Thứ hai, chất lượng đào tạo NNLCLC chưa tương xứng với yêu cầu của xã hội

Kết quả phổ cập giáo dục đạt kết quả tốt, đánh giá PISA cho kết quả vượt trội, song việc tiếp cận giáo dục sau bắt buộc còn nhiều hạn chế, thiếu hướng nghiệp và thiếu kỹ năng; gia tăng bất bình đẳng, đặc biệt là sự tụt hậu của các dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa.

Báo cáo PCI cấp tỉnh năm 2020 cho thấy: Các nhà đầu tư nước ngoài (FDI) ít hài lòng về chất lượng đào tạo nghề tại các địa phương và cho biết họ phải chi nhiều hơn cho việc đào tạo lại lao động mới tuyển vào. Cơ cấu ĐT&GD nghề nghiệp còn bất cập, chủ yếu vẫn là trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng (chiếm 75%), trình độ trung cấp, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 25%. Tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp khó khăn, đặc biệt ở những ngành, nghề kỹ thuật cao, nghề nặng nhọc độc hại, ngành nghề năng khiếu. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp có năng lực chuyên môn chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; còn yếu về ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm, kỹ năng khởi nghiệp. Theo Khảo sát doanh nghiệp của tổ chức GIZ trong năm 2020, kỹ năng cứng, thái độ làm việc là những nội dung có sự chênh lệch lớn giữa yêu cầu của doanh nghiệp với năng lực hiện có ở người học, cần được cải thiện. Việc triển khai đào tạo nghề nghiệp chất lượng cao (phát triển nghề trọng điểm, trường nghề chất lượng cao và thí điểm đào tạo cấp độ quốc tế, khu vực ASEAN theo chương trình chuyển giao từ nước ngoài...) còn chậm.

Chất lượng giáo dục đại học còn thấp và không đáp ứng nhu cầu kỹ năng của thị trường lao động. Theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2018, Việt Nam xếp thứ 84/137 quốc gia về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại học và xếp thứ 79/134 về năng lực đổi mới sáng tạo; kết quả đầu ra của nghiên cứu còn đứng sau khá xa so với Thái Lan và Malaysia.

Thứ ba, kết nối cung - cầu lao động chưa đáp ứng yêu cầu xã hội

Một vấn đề rất đáng quan tâm đó là tình trạng người lao động làm việc không phù hợp với ngành nghề được đào tạo, cũng như với trình độ chuyên môn và tay nghề được đào tạo. Số liệu thống kê năm 2021 cho thấy 81,1% lao động có trình độ cao đẳng, 60,4% số lao động có trình độ trung cấp, 23,8% số lao động có trình độ đại học trở lên làm các công việc có yêu cầu trình độ chuyên môn kỹ thuật/kỹ năng thấp hơn so với trình độ chuyên môn kỹ thuật được đào tạo (theo bằng cấp/chứng chỉ). Mặt khác, có khoảng 35,1% lao động làm các công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật/kỹ năng cao hơn so với bằng cấp của họ.

Nghiên cứu của Tổ chức Lao động Thế giới ILO (2020) và ADB (2019) về sự không phù hợp giữa kỹ năng và công việc trong giai đoạn 2012- 2019 cho thấy mức độ phù hợp giữa việc làm và trình độ được đào tạo của lao động Việt Nam đang giảm đi, trong khi tình trạng làm công việc có yêu cầu cao hơn so với trình độ đào tạo hoặc yêu cầu thấp hơn so với trình độ đào tạo đều tăng lên.

Thứ tư, vấn đề thể lực và thái độ lao động của NNLCLC còn nhiều bất cập.

Không chỉ trí lực của nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều hạn chế, mà thể lực của NNL Việt Nam cũng yếu, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao còn một khoảng cách lớn so với các quốc gia khác. Theo công bố của Bộ Y tế vào năm 2021 chiều cao trung bình của người Việt Nam đối với nam là xấp xỉ 1,68m và nữ là 1,56m. Chiều cao này là rất thấp so với chiều cao trung bình của đa số các nước trong khu vực Châu Á và thấp hơn nhiều so với các nước Châu Âu. Theo Bộ Y tế, tính trung bình trong 30 năm qua, người Việt Nam chỉ cao thêm được 4,5cm, nghĩa là mỗi thập kỉ cao lên được hơn 1cm. Thể lực yếu, độ bền và sức tải trong lao động kém nên người lao động Việt Nam thường chỉ làm việc với thời gian tập trung ngắn, chóng mệt mỏi và chất lượng không cao. Ngoài ra, vấn đề ý thức lao động, kỷ luật lao động, kỷ luật công nghệ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng mềm, khả năng làm việc trong môi trường đa văn hóa cũng được coi là những điểm yếu của lao động Việt Nam.

Như vậy, Việt Nam đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển nền kinh tế tri thức, kinh tế số, tăng cường đổi mới sáng tạo đòi hỏi nhiều hơn và cao hơn các kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng xúc cảm xã hội. Trong cuộc CMCN 4.0 với sự phát triển liên quan đến tự động hóa, số hóa, nhu cầu về kỹ năng thay đổi nhanh chóng, một số nghề sẽ biến mất, một số khác xuất hiện và những ngành khác lại thay đổi. NNL nói chung và nhân lực chất lượng cao cũng phải được chuẩn bị sớm hơn, nhanh hơn, cập nhật hơn và theo cách tiếp cận thực tế hơn.

Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong thời gian tới

Một là, tăng cường nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Cần nhận thức NNLCLC là tài nguyên quý giá nhất, lực lượng đầu tàu, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đây là nội dung quan trọng có ý nghĩa hàng đầu bảo đảm cho việc phát triển NNLCLC được diễn ra thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm để đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.

Trong đột phá phát triển NNLCLC, phải đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia và cán bộ KH&CN đầu ngành. Đây chính là những “đầu tàu của đội ngũ đầu tàu”, đóng vai trò quyết định đối với phát triển NNLCLC từ nhận thức đến chủ trương, chính sách và hiệu quả trong triển khai thực tiễn. Nắm vững quan điểm cán bộ là nhân tố then chốt, quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam, của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế; gắn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với đổi mới công tác cán bộ, thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; đổi mới tư duy, cách làm theo hướng thực chất, thiết thực, hiệu quả; khắc phục được những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ.

Cần đổi mới tư duy trong tuyển dụng, đánh giá và đãi ngộ nhân lực trên cơ sở năng lực, hiệu quả công việc. Đây chính là động lực để mỗi cá nhân không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề và năng suất, hiệu quả lao động để khẳng định “chất lượng cao” của mình. Tránh tình trạng cứ gắn mác cử nhân, tiến sĩ… đương nhiên được coi là chất lượng cao, được hưởng các chế độ dành cho nhân lực chất lượng cao trong khi chuyên môn yếu kém, năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc thấp. Hiện nay, Ban tổ chức trung ương đã và đang tiến hành triển khai Đề án xây dựng vị trí việc làm trong đó xác định khung năng lực, mô tả vị trí việc làm, số lượng, sản phẩm cụ thể của mỗi vị trí…đây được đánh giá là những bước đi đúng đắn ban đầu trong thay đổi nhận thức về đánh giá cán bộ.

Phát triển NNLCLC phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với nhu cầu xã hội và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Trong thời gian qua Việt Nam đã xây dựng và thực hiện xong về cơ bản quy hoạch phát triển NNL giai đoạn 2011-2020, song tình trạng thất nghiệp vẫn rất phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng. Thực tế trên chứng tỏ, việc xây dựng, quy hoạch vẫn chưa bám sát và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Vẫn còn tình trạng các bộ ngành, địa phương tuy có quy hoạch song tính liên thông, kết nối, phối kết hợp chưa hiệu quả, chưa sát với thực tế, việc quy hoạch còn mang tính hình thức nên công tác phát triển NNLCLC vẫn mang tính tự phát. Do thiếu thông tin, thiếu liên thông, liên kết nên nhà nhà cứ cho con đi học, ngành giáo dục thì cứ đào tạo, các cơ, tổ chức, doanh nghiệp thì vẫn sử dụng theo cách riêng của mình. Để khắc phục tình trạng này, mỗi bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phải xây dựng quy hoạch phát triển NNLCLC phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, nhu cầu xã hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đơn vị và đất nước.

Cần xác định phát triển NNLCLC là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã hội, của hệ thống chính trị, trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý, nhà trường, doanh nghiệp, gia đình cũng như của mỗi cá nhân trong đó có nhân lực chất lượng cao. Do đó, quá trình thay đổi nhận thức phải bắt đầu từ trung ương tới cơ sở, từ các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước đến mỗi người dân. Các cấp ủy Đảng, chính quyền và mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy tốt hơn nữa vai trò và trách nhiệm của mình trong xây dựng đường lối, chính sách, hiện thực hóa, kiểm tra, giám sát công tác phát triển NNLCLC; phải thấy đây là cơ hội để Việt Nam có thể cất cánh. Đối với NNLCLC, cần nhận thức đúng vị trí, vai trò, trọng trách của mình đối với sự phát triển của nước nhà trong thời kỳ mới, điều kiện mới. Phải coi đây là vinh dự, bổn phận đối với đất nước để không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, cống hiến tốt nhất cho đất nước.

Trước mắt để nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn xã hội, cần tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền góp phần giúp mọi người dân hiểu rõ về những chính sách phát triển NNLCLC: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhân lực chất lượng cao, việc làm, chế độ ưu đãi, giáo dục đào tạo…; vận động các doanh nghiệp tích cực tham gia đào tạo nhân lực chất lượng cao để sử dụng và phát huy vai trò của đội ngũ này.

Tập trung vào giáo dục cho thanh niên nhận thức đúng về vai trò, trách nhiệm và cơ hội để họ phấn đấu, cống hiến cho đất nước trong điều kiện CMCN 4.0. Cần nhận thức đúng đắn trong điều kiện hội nhập sâu rộng và sự phát triển nhanh chóng của CMCN 4.0 thì nhu cầu tuyển dụng lao động và chuyển đổi lao động và dịch chuyển lao động giữa các quốc gia, các vùng miền, dân tộc là rất lớn, người lao động dù ở bất cứ quốc gia nào, ngành nghề nào, lĩnh vực nào, nếu có trình độ cao, kỹ năng nghề nghiệp tốt, đều có cơ hội tìm việc làm và có thu nhập tốt. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ học vấn và năng lực chuyên môn, thanh niên cần phải rèn luyện đạo đức, lối sống và nhân cách, chú trọng rèn luyện sức khỏe, tự mình đổi mới từ nhận thức đến hành động, trở thành người tiên phong trong đổi mới, cách tân và sáng tạo, chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết chính là cách tốt nhất để thế hệ trẻ có thể hội nhập bền vững.

Mặt khác, cần làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của mọi cấp, mọi ngành và mọi người dân về vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung và phương hướng xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Cần xác định rõ đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của cả hệ thống chính trị, trong đó cần sớm thống nhất nhận thức trong các cơ quan đảng, nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, trước hết là lực lượng nòng cốt, đang trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu và hoạch định chiến lược, chính sách, tác động của thời cơ và thách thức đối với nước ta từ cách mạng công nghiệp 4.0. Toàn xã hội, từng người dân, mọi doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đều cần có hiểu biết về thời cơ, thách thức của cách mạng công nghiệp 4.0.

Chỉ có nhận thức đúng đắn thì mới có cách ứng xử, có định hướng, tư duy phát triển phù hợp. Từ đó xác định trách nhiệm chung, trách nhiệm của mỗi người trong công tác phát hiện, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao. Chúng ta không được phép chủ quan, xem nhẹ sự tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng cũng không tự ti, mặc cảm về nguồn nhân lực hiện có. Tăng cường quảng bá để nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ, thu hút sinh viên vào học các ngành khoa học và công nghệ; nuôi dưỡng các kỹ năng khoa học và công nghệ.

Hai là, tích cực đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Hệ thống cơ chế, chính sách có vai trò rất quan trọng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, tạo động lực thúc đẩy hoặc lực cản kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng. Trên thực tế, những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mới có tác động tích cực đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách đó đã bộc lộ không ít những hạn chế, bất cập, hiệu quả mang lại chưa tương xứng. Do đó, để tiếp tục phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao có hiệu quả đòi hỏi cần phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, như giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, an sinh xã hội, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, chính sách phát triển thị trường lao động, các điều kiện nhà ở, sinh sống, định cư,... Trong đó, trước hết cần coi trọng việc tạo lập các cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc đổi mới chính sách tuyển dụng, bố trí sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải được triển khai theo hướng công khai, công tâm, khách quan, chính xác, dựa trên cơ sở phẩm chất và năng lực thực chất. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo, quản lý cần mạnh dạn sử dụng nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao; lôi cuốn họ nỗ lực thực hiện những kiến thức, chuyên môn đã được tích lũy, được đào tạo thông qua những chính sách sử dụng hợp lý.

Tạo sự đột phá về đãi ngộ, tôn vinh nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện chính sách tiền lương linh hoạt theo tiêu chí tài năng và hiệu quả đóng góp; tạo môi trường làm việc thuận lợi và cơ hội thăng tiến để tạo động lực, kích thích, khuyến khích họ lao động sáng tạo và hiệu quả. Bảo đảm đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc, nghiên cứu cho những nhà khoa học, những tài năng trẻ. Thường xuyên tôn vinh nhân tài đi kèm cơ chế khuyến khích về lợi ích vật chất đối với những người có cống hiến mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.

Mặt khác, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý từ Trung ương đến địa phương nhằm tạo môi trường thuận lợi phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích phát triển thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao; thị trường và sản phẩm khoa học - công nghệ theo hướng hội nhập, xây dựng môi trường pháp lý cho phát triển các ngành, nghề kinh doanh mới ở Việt Nam đang bắt đầu nảy sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đảng đã xác định: “Hoàn thiện thể chế về phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao” [7].

Trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt từ đại hội VIII đến nay, nhân tố con người luôn được coi là vốn quý nhất và quyết định nhất trong phát triển. Coi đầu tư cho phát triển nguồn lực nói chung, nguồn lực KH&CN nói riêng là đầu tư cho phát triển. Song sự chuyển biến còn quá chậm và thực tế cũng còn quá chậm, điều này cho thấy giữa nhận thức và thực tiễn hành động còn một khoảng cách khá xa. Hành trình từ chủ trương, đường lối đến thực tiễn còn nhiều quanh co, khúc khuỷu và mất rất nhiều thời gian. Vẫn còn tình trạng nghĩ được, nhận thức được nhưng không làm, nói nhiều, làm ít hoặc có làm nhưng chỉ là hình thức tính hiệu quả không cao.

Vì vậy, để tạo ra chuyển biến từ nhận thức đến hành động, đòi hỏi sự chủ động nêu gương từ cấp trung ương đến cơ sở, từ cá nhân nhà lãnh đạo cao nhất đến cá nhân mỗi người dân trong xã hội. Nắm vững quan điểm cán bộ là nhân tố then chốt, quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam, của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế; gắn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với đổi mới công tác cán bộ, thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; đổi mới tư duy, cách làm theo hướng thực chất, thiết thực, hiệu quả; khắc phục được những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài; tránh tình trạng trọng dụng theo kiểu phong trào, tràn lan, rải thảm đỏ nhưng không bảo đảm điều kiện làm việc, và do đó, mang tính hình thức, kém hiệu quả và lãng phí nguồn lực. Thực hiện đổi mới có tính cách mạng về tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và trả công lao động; gắn sử dụng, đánh giá với đào tạo NNL. Xây dựng môi trường làm việc, trọng dụng nhân tài đồng bộ, tạo cơ hội cho người tài phát huy năng lực và thu hút nhân lực trình độ cao là người Việt đang làm việc ở nước ngoài, Việt kiều và chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam.

Thực tế cho thấy, NNLCLC phải chú trọng từ người lao động có kỹ năng, các nhà doanh nghiệp tài ba, các nhà quản lý giỏi, các nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc. Vì vậy, cần thiết lập một quy trình phát hiện, tìm tòi, đánh giá chặt chẽ và tuyển chọn công khai NNL phù hợp với từng nơi và từng yêu cầu cụ thể về NNL như cách mà nhiều nước đã làm thành công. Các địa phương có thể tự cân đối nguồn tài chính, thí điểm ký hợp đồng trả công cho những người có tài đáp ứng yêu cầu công việc theo giá thị trường nhằm khắc phục các bất cập về lương, chế độ chính sách khiến cho việc thu hút NNLCLC gặp khó khăn. Người được tuyển chọn, tùy theo lĩnh vực và vị trí cụ thể, có thể có những yêu cầu khác nhau, song nhìn chung là phải đến từ nhiều nguồn, không chỉ ở trong nước, mà cả bà con Việt kiều ở ngoài nước, các chuyên gia quốc tế muốn đến làm việc tại Việt Nam. Trên một số ngành công nghệ cao, cần có thử nghiệm táo bạo trong việc mời những trí thức Việt kiều đã thành công ở các nước phát triển về nắm giữ một số vị trí then chốt nhằm tạo ra các đột phá cho sự thay đổi. Trong trường hợp không thành công, cần phải có chế tài để thôi không trả lương cho họ theo mức giành cho người tài năng và nếu họ có nguyện vọng ra lại nước ngoài, cần tạo điều kiện tốt nhất cho họ. Chính sách này không phải vì cá nhân một nhà khoa học, nhà quản lý nào đó, mà điều căn bản là chúng ta có được một môi trường thu hút, phát triển NNLCLC hấp dẫn và đạt tới chuẩn mực chung của thế giới.

Như vậy, để phát triển NNLCLC đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đến năm 2030 - tầm nhìn 2045, đòi hỏi quyết tâm chính trị, sự thống nhất ý chí và hành động của các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương trong đó vai trò hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược của những người lãnh đạo đứng đầu Đảng, Nhà nước có tính chất quyết định. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần khắc phục căn bản thực trạng thiếu hụt về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ mới

Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần khắc phục căn bản thực trạng thiếu hụt về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay. Mặc dù “Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020” đang được triển khai thực hiện và bước đầu đạt những kết quả tích cực, song chúng ta vẫn chưa có một chiến lược tổng thể để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0 cũng như việc nâng cao chất lượng và thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một chủ trương lớn, một trong những nhiệm vụ rất quan trọng và phức tạp, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng với một tư duy đột phá và tầm nhìn lâu dài, phù hợp với thực tiễn. Chiến lược phải xác định rõ mục tiêu, quy mô, lộ trình và những cơ chế, chính sách tổng thể. Trong đó, mục tiêu chiến lược phải ưu tiên khắc phục mâu thuẫn giữa phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu; xác định quy mô, số lượng và cơ cấu của từng loại nhân lực cho phù hợp. Chiến lược cũng xây dựng lộ trình thực hiện một cách hợp lý, có tính dự báo cao, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao một cách toàn diện và đồng bộ.

Phát triển NNLCLC phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với nhu cầu xã hội và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Trong thời gian qua Việt Nam đã xây dựng và thực hiện xong về cơ bản quy hoạch phát triển NNL giai đoạn 2011-2020, song tình trạng thất nghiệp vẫn rất phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng. Thực tế trên chứng tỏ, việc xây dựng, quy hoạch vẫn chưa bám sát và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Vẫn còn tình trạng các bộ ngành, địa phương tuy có quy hoạch song tính liên thông, kết nối, phối kết hợp chưa hiệu quả, chưa sát với thực tế, việc quy hoạch còn mang tính hình thức nên công tác phát triển NNLCLC vẫn mang tính tự phát. Do thiếu thông tin, thiếu liên thông, liên kết nên nhà nhà cứ cho con đi học, ngành giáo dục thì cứ đào tạo, các cơ, tổ chức, doanh nghiệp thì vẫn sử dụng theo cách riêng của mình. Để khắc phục tình trạng này, mỗi bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phải xây dựng quy hoạch phát triển NNLCLC phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, nhu cầu xã hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đơn vị và đất nước.

Bốn là, đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ giáo dục - đào tạo.

Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp trọng yếu để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nói chung và trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nói riêng. Theo đó, cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, tổ chức, sắp xếp lại hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục đại học và dạy nghề. Khắc phục các bất hợp lý về quy mô đào tạo, cơ cấu trình độ ngành, nghề và cơ cấu vùng, miền; gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ. Chú trọng hơn nữa phát triển ngành tự động hóa, đầu tư cho các nhóm nghiên cứu sâu về các lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, thông tin vệ tinh, số hóa, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học và sự tích hợp giữa chúng.

Đồng thời, xác định đúng khả năng và nhu cầu đào tạo, tăng cường chất lượng công tác lập kế hoạch, dự báo thường xuyên và cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực của xã hội, nhất là nhu cầu của các doanh nghiệp, các địa phương nhằm điều tiết quy mô, cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo cho phù hợp. Thực hiện tốt cơ chế, chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ; coi trọng đào tạo đại học và trên đại học, cao đẳng và dạy nghề theo chuẩn khu vực và quốc tế. Tạo chuyển biến nhanh và rõ nét trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế. Đẩy mạnh xã hội hóa, giao quyền tự chủ cho các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề công lập; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề.

Đổi mới chương trình, nội dung đào tạo đại học theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực và phù hợp, “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động” [8]. Đồng thời, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp, hình thức dạy học bậc đại học, nhanh chóng chuẩn hóa đội ngũ giảng viên đại học. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia quá trình đào tạo và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam; tiếp tục gửi sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học tập, đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện kết hợp giữa chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước với huy động các nguồn lực xã hội; kêu gọi đầu tư nước ngoài, thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.

Kết luận

Để đất nước phát triển nhanh, bền vững, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, đặc biệt để Việt Nam trở thành thành viên nhóm các nước có thu nhập cao vào năm 2045, việc ưu tiên tập trung phát triển nhân lực chất lượng cao là cấp thiết, quan trọng hơn hết. Muốn vậy, phải tập trung tối đa nguồn lực cho lĩnh vực này trong những chiến lược phát triển đất nước trong tương lai để “nguồn nhân lực chất lượng chất lượng cao thực sự là khâu đột phá trong những khâu đột phá”./.

PGS.TS Nguyễn Thị Bích Loan

    Trường Đại học Thương mại

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr 85, 21.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr 213.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr 130

Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Tài liệu học tập các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr 295 - 296.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr 215, 216, 99, 231.

...