24/11/2024 lúc 07:43 (GMT+7)
Breaking News

Hoàn thiện khung chính sách cho phát triển tăng trưởng xanh

Tăng trưởng xanh (TTX) là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.

Đồng thời Tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, hiện thực hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030, hệ thống quy hoạch quốc gia, chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực.

Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Chiến lược TTX) và Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 (Kế hoạch hành động) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 và Quyết định số 882/QĐ-TTg ngày 22/7/2022. Tiếp sau đó, năm 2022, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia về tăng trưởng xanh (Ban Chỉ đạo), giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo và điều phối giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành trong quá trình triển khai Chiến lược. Chiến lược TTX đã xác định rõ các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể.

* Mục tiêu tổng quát: Tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.

* Mục tiêu cụ thể gồm:

+ Giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP: Theo đó, đến năm 2030: Cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm ít nhất 15% so với năm 2014; đến năm 2050: Cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm ít nhất 30% so với năm 2014.

+ Xanh hóa các ngành kinh tếĐến năm 2030: Tiêu hao năng lượng sơ cấp trên GDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 giảm từ 1,0 - 1,5%/năm; tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp đạt 15 - 20%; kinh tế số đạt 30% GDP; tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%; ít nhất 30% tổng diện tích cây trồng cạn có tưới được áp dụng phương pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước. Đến năm 2050: Tiêu hao năng lượng sơ cấp trên GDP bình quân mỗi giai đoạn (10 năm) giảm 1,0%/năm; tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp đạt 25 - 30%; phấn đấu kinh tế số đạt 50% GDP; tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42 - 43%; ít nhất 60% tổng diện tích cây trồng cạn có tưới được áp dụng phương pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước.

+ Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững: Đến năm 2030: Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đạt 95%; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp so với lượng chất thải được thu gom chiếm 10%; tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định lần lượt đạt trên 50% đối với đô thị loại II trở lên và 20% đối với các loại đô thị còn lại; tỷ lệ đảm nhận của vận tải hành khách công cộng tại các đô thị đặc biệt, đô thị loại I lần lượt đạt ít nhất 20% và 5%; tỷ lệ xe buýt sử dụng năng lượng sạch tại các đô thị đặc biệt đạt ít nhất 15% so với tổng số xe buýt đang hoạt động và tại đô thị loại I đạt 10% số lượng xe buýt mới; tỷ lệ mua sắm công xanh trong tổng mua sắm công đạt ít nhất 35%; ít nhất 10 đô thị phê duyệt và thực hiện Đề án tổng thể về phát triển đô thị tăng trưởng xanh theo hướng đô thị thông minh bền vững.  Đến năm 2050: Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia đạt 100%, trong đó hạn chế tối đa việc chôn lấp chất thải rắn hữu cơ và chất thải có thể tái chế; 100% các đô thị được xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống thoát nước, xóa bỏ tình trạng ngập úng tại các đô thị và 100% nước thải được xử lý phải đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra nguồn tiếp nhận; tỷ lệ đảm nhận của vận tải hành khách công cộng tại các đô thị đặc biệt, đô thị loại I lần lượt đạt ít nhất 40% và 15%; tỷ lệ xe buýt sử dụng năng lượng sạch tại các đô thị đặc biệt và đô thị loại I lần lượt đạt 100% và ít nhất 40% số lượng xe buýt đầu tư mới; tỷ lệ mua sắm công xanh trong tổng mua sắm công đạt ít nhất 50%; ít nhất 45 đô thị phê duyệt và thực hiện Đề án tổng thể về phát triển đô thị tăng trưởng xanh theo hướng đô thị thông minh bền vững.

+ Xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu: Đến năm 2030: Chỉ số phát triển con người (HDl) đạt trên 0,75; 100% các tỉnh, thành phố xây dựng và triển khai Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh; tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch, đạt chuẩn theo quy định của Bộ Y tế đạt ít nhất 70%.  Đến năm 2050: Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,8. Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch, đạt chuẩn theo quy định của Bộ Y tế đạt ít nhất 90%.

Thực tế triển khai thực hiện Chiến lược TTX

Chiến lược TTX bước đầu triển khai thành công đã từng bước góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng khả năng tiếp cận bình đẳng cho nhân dân về thành quả phát triển của quá trình chuyển đổi xanh, hiện thực hóa các cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về phát triển bền vững và biến đổi khí hậu, nhất là các cam kết đưa mức phát thải ròng về "0" vào năm 2050 tại Hội nghị COP26.

Theo nhiều chuyên gia, trong mô hình kinh tế TTX, các doanh nghiệp phải ở vị trí trung tâm, giữ vai trò chính trong phát triển; còn Nhà nước đóng vai trò “nhạc trưởng”, phối hợp các bên liên quan, quản lý vĩ mô và kiến tạo quá trình chuyển đổi. Để phát triển kinh tế xanh, Việt Nam cần bảo đảm 4 điều kiện, bao gồm: Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về tăng trưởng xanh; tăng cường đầu tư nguồn lực cho phát triển năng lượng tái tạo; tăng cường giao lưu, hợp tác với cộng đồng quốc tế; đẩy nhanh hơn nữa việc giải quyết bài toán thuế carbon.

Thực tế cũng cho thấy, mặc dù vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu, nhưng hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến kinh tế xanh đã, đang được xây dựng, dần hoàn thiện. Công tác hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh xanh, bền vững đã được các cơ quan, tổ chức đẩy mạnh. Các mô hình kinh doanh xanh, bền vững đã được chia sẻ, dần được lan tỏa trong cộng đồng doanh nghiệp…  

Những vấn đề liên quan đến khung chính sách cần hoàn thiện để phát triển TTX

Để việc triển khai thực hiện Chiến lược đạt hiệu quả cao nhất, cần tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện khung khổ pháp lý cho TTX, trong đó cần bảo đảm các công cụ thực thi, theo dõi, đánh giá… được ban hành đầy đủ; cơ chế chính sách thuận lợi cho việc triển khai tại các cấp từ Trung ương đến địa phương; bên cạnh đó cần quan tâm đầy đủ tới nguồn lực đầu tư (công, tư), công nghệ quản trị, đào tạo nhân lực; các bộ, cơ quan liên quan cần tích cực, chủ động hội nhập, học tập kinh nghiệm quốc tế về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh.

Đi vào cụ thể, Chính phủ, các bộ, ngành cần có chính sách, giải pháp để hỗ trợ các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính tiếp cận nguồn tài chính xanh quốc tế, các chương trình đào tạo, trao đổi kinh nghiệm quốc tế về tăng trưởng xanh và tài chính xanh. Cần sớm ban hành Quy định phân loại và xác nhận dự án xanh, trong đó, cần có sự tương đồng giữa các tiêu chí xanh của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế cùng với các chính sách ưu đãi tương ứng với các mức độ đáp ứng tiêu chí xanh từ thấp đến cao.

Bên cạnh đó, cần hoàn thiện khung chính sách cho phát triển thị trường tài chính xanh. Các chính sách liên quan đến thị trường tài chính xanh cần sớm được ban hành cụ thể song song hoặc lồng ghép với những chính sách về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng và ứng phó với biến đổi khí hậu. Song song, cần có các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ về thuế, phí, lãi suất… khi địa phương, doanh nghiệp chuyển đổi xanh.

Nhà nước cũng cần phải hoàn thiện chính sách, đơn giản hóa thủ tục và khuyến khích các tổ chức trong nước tham gia quá trình xác nhận, chứng nhận khung dự án xanh, trái phiếu xanh và dán nhãn dự án xanh, trái phiếu xanh theo các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, xây dựng bộ tài liệu mẫu (công bố thông tin trước phát hành, công bố thông tin định kỳ, báo cáo…) về việc hướng dẫn hoạt động phát hành trái phiếu xanh trong nước và quốc tế, làm cơ sở để các đơn vị tham gia thống nhất thực hiện. Việc hoạch định và thực thi chính sách theo hướng tăng hiệu quả sử dụng năng lượng cần tập trung vào việc hạn chế thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp thâm dụng năng lượng; khuyến khích theo hướng ưu đãi về thuế khi áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng. Đồng thời hoàn thiện thể chế, chính sách, mô hình phát triển và quản lý khu công nghiệp, cũng như có chính sách ưu đãi về thuế, đất đai và các hình thức hỗ trợ khác.

Doanh nghiệp, tổ chức tài chính cần có kế hoạch, chiến lược phát triển xanh, xây dựng văn hóa xanh, đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ nhân lực liên quan, nhất là các bộ phận liên quan đến tài chính xanh, tín dụng xanh, quản lý rủi ro môi trường-xã hội… Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp trong nước đã và đang lấy kinh doanh xanh là chiến lược và lợi thế cạnh tranh cho mình. Từ việc sử dụng nguyên liệu thân thiện môi trường, ủng hộ các hoạt động trách nhiệm xã hội xanh, đến đầu tư nghiêm túc vào những dây chuyền sản xuất giảm thiểu chất thải và khí thải. Việc phát huy vai trò của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy Việt Nam sớm đạt được những mục tiêu về tăng trưởng xanh, bền vững.

Cơ sở xác định giải pháp hoàn thiện

Đến nay, qua hơn 10 năm triển khai chiến lược tăng trưởng xanh có thể thấy, nhận thức của nhân dân, cộng đồng về vai trò, ý nghĩa của TTX đã được nâng lên rõ rệt, từng bước thay đổi hành vi sản xuất, sinh hoạt và có nhiều hành động thiết thực đóng góp vào thực hiện tăng trưởng xanh; Xuất hiện nhiều mô hình sản xuất và tiêu dùng tiết kiệm, an toàn, văn minh, mang đậm bản sắc dân tộc, hài hòa và thân thiện với thiên nhiên; Cảnh quan, môi trường sống của người dân ngày càng thay đổi theo hướng tích cực hơn, đặc biệt tại các xã nông thôn mới. Cùng với đó, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế nhằm hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng xanh đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Một số mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu chính của Chiến lược tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 đã đạt được kết quả khả quan.

Tuy vậy, vẫn còn có những hạn chế cần được khắc phục; chẳng hạn như:  Tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh (danh mục phân loại xanh) chưa được ban hành. Trong khi đó, phạm vi định nghĩa về trái phiếu xanh tại Việt Nam còn tương đối hẹp; cụ thể, theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP, “trái phiếu doanh nghiệp xanh là trái phiếu doanh nghiệp được phát hành để đầu tư cho dự án thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường, dự án mang lại lợi ích về môi trường theo quy định của pháp luật bảo vệ môi trường”. Như vậy, quy định về trái phiếu xanh mới chỉ dừng lại ở khía cạnh đáp ứng các tiêu chuẩn các quy định của pháp luật Việt Nam mà chưa đề cập đến tiêu chuẩn trái phiếu xanh quốc tế...

Để đáp ứng được các mục tiêu, cam kết về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, nguồn vốn đầu tư là một vấn đề lớn được đặt ra. Cụ thể, theo báo cáo kỹ thuật của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhu cầu tài chính cho các biện pháp giảm phát thải trong từng lĩnh vực theo cam kết môi trường của Việt Nam đến năm 2030 dự kiến khoảng 68,75 tỉ đô la Mỹ. Theo ước tính, nguồn lực trong nước tự cân đối dự báo đạt khoảng 25 tỉ đô la Mỹ, chiếm 36% tổng nhu cầu tài chính.  Bên cạnh đó, theo báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển của Ngân hàng thế giới, ước tính nhu cầu tài chính cho các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam đến năm 2050 tương đương 6,3-7,2% GDP/năm, tương đương 30,24-39,6 tỉ đô la. Trong đó, nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước để nâng cao khả năng chống chịu và ứng phó với thiên tai ước đạt 1,8% GDP, nhu cầu huy động từ khu vực ngoài nhà nước ước đạt 4,5-5,4% GDP. Đồng thời, tính toán của Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP) còn cho thấy, Việt Nam cần khoảng 330-370 tỉ đô la Mỹ để thực hiện cam kết phát thải ròng về 0 vào năm 2050… Đây là vấn đề rất lớn, nhưng trước hết cần tháo gỡ những vướng mắc về khuôn khổ pháp lý.

Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan đẩy nhanh việc rà soát, hoàn thiện và sớm ban hành tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh. Bên cạnh đó, sửa đổi, bổ sung quy định theo hướng, mở rộng định nghĩa về trái phiếu xanh tại Việt Nam ngoài tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam còn phải đáp ứng theo tiêu chuẩn trái phiếu xanh quốc tế. Điều này sẽ tạo điều kiện huy động nguồn lực tài chính quốc tế cho lĩnh vực tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Đồng thời sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN theo hướng, bổ sung tín dụng xanh là một lĩnh vực được hưởng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa nhằm tiết giảm chi phí đầu tư cho các dự án xanh./.

Ths. Trần Công Thanh

...