Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao là một nền nông nghiệp ứng dụng hợp lý những công nghệ mới, tiên tiến vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng nông sản, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội và bảo đảm sự phát triển nông nghiệp bền vững. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đổi mới khoa học công nghệ được coi là một trong những giải pháp then chốt, trọng tâm, giúp sản xuất nông nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, hạ giá thành và nâng cao chất lượng nông sản, bảo vệ môi trường. Mặt khác, nông nghiệp công nghệ cao giúp nông dân chủ động trong sản xuất, khắc phục được tính mùa vụ, giảm sự lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu, đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng nông sản.
Xác định tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp sạch, thời gian qua Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định, đề ra các giải pháp trọng tâm thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao đối với các bộ, ban, ngành. Từ những chủ trương, giải pháp đó, đã phát triển nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, góp phần quan trọng giúp các mặt hàng nông sản Việt Nam chinh phục các thị trường quốc tế, tạo nên chuỗi giá trị nông sản bền vững.
Tuy còn những khó khăn, nhưng việc áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) ngày càng mở rộng và hiệu quả, mang lại sản phẩm an toàn, chất lượng tốt, năng suất cao. Bên cạnh đó, việc mở rộng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất cùng với kết quả nghiên cứu, đánh giá, triển khai mô hình cánh đồng mẫu lớn đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị…
Bên cạnh đó, lĩnh vực chăn nuôi đã có những chuyển biến rõ nét về tổ chức sản xuất, chăn nuôi trang trại, gia trại, tập trung theo chuỗi khép kín, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao; nhiều mô hình chăn nuôi hữu cơ đã hình thành và đang được phổ biến, nhân rộng. Công nghệ chế biến thủy sản ngày càng được đầu tư hiện đại để đáp ứng các yêu cầu của thị trường quốc tế.
Ngành lâm nghiệp cũng có sự phát triển đáng kể với tốc độ tăng trưởng ổn định; đã làm chủ nhiều công nghệ tiên tiến, tạo ra các dây chuyền chế biến, bảo quản có chất lượng tương đương với sản phẩm nhập khẩu; hình thành ngành công nghiệp chế biến lâm sản đứng thứ hai Châu Á và đứng thứ năm trên thế giới.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp, từ nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi; kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, canh tác; thức ăn chăn nuôi; phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y; kỹ thuật chế biến, bảo quản sau thu hoạch… đã tạo ra giá trị mới cho nông sản, giúp sản phẩm tươi, an toàn, nâng cao năng suất, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng.
Những khó khăn, thách thức
Mặc dù đã đạt được những thành quả nhất định, nhưng việc phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch ở nước ta vẫn còn những mặt chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, có những bất cập, hạn chế cần tiếp tục được quan tâm giải quyết.
Một trong những khó khăn là chưa phát triển được những mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn và sự đầu tư tương xứng, trong khi dòng vốn đầu tư vào nông nghiệp ở nước ta còn thấp. Bên cạnh đó, thiếu đất quy mô lớn để đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ theo vùng sản xuất tập trung; thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao còn hạn hẹp và chưa ổn định; cộng với sự bất cập trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, nhân lực còn hạn chế. Khó khăn còn nằm ở vấn đề vốn đầu tư: Trong khi các dự án nông nghiệp công nghệ cao thường yêu cầu vốn vay lớn, thời gian dài, nhưng sản xuất nông nghiệp lại luôn tiềm ẩn rủi ro, các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro còn chậm triển khai…
Về phía các tổ chức tín dụng, khó khăn nằm ở việc thẩm định và quyết định cho vay do số lượng các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch hiện nay còn hạn chế; nhiều dự án chưa được đầu tư bài bản, chưa chứng minh được tính khả thi, hiệu quả, thị trường tiêu thụ không ổn định...; khó khăn trong việc giám sát sau cho vay; cho vay các hộ gia đình, doanh nghiệp nông nghiệp kém hấp dẫn, không khuyến khích được các tổ chức tín dụng tham gia do nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro bởi thiên tai, dịch bệnh, các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro còn chậm triển khai.
Mặt khác, số đông người dân, doanh nghiệp cũng chưa thực sự sẵn sàng tham gia sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao một cách bài bản, chưa có phương án sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao hiệu quả và phương án trả nợ khả thi, thị trường tiêu thụ không ổn định. Nhiều doanh nghiệp năng lực tài chính còn hạn chế, công tác hạch toán kế toán thiếu chuyên nghiệp, thông tin tài chính thiếu minh bạch, thiếu tài sản đảm bảo, cũng khó khăn trong việc đưa công nghệ cao vào áp dụng.
Để phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nhiều chuyên gia và nhà quản lý doanh nghiệp kiến nghị, Chính phủ và các bộ ngành cần có cơ chế thu hồi đất sử dụng không hiệu quả một cách quyết liệt để tập trung đất đai, kêu gọi sự tham gia của các doanh nghiệp đủ “Tâm”, đủ “Tầm”, là lực lượng có đủ năng lực, tiềm lực về vốn, tài chính, về quản trị kinh doanh, về công nghệ, kỹ thuật, về tư duy thị trường sản phẩm để sắp xếp, tổ chức sản xuất, hướng dẫn và lôi kéo người dân đi theo cùng làm, cùng chịu trách nhiệm và cùng hưởng.
Nhằm tăng cường khả năng cung ứng và tiếp cận vốn tín dụng đối với nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các Tổ chức tín dụng cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, lãi suất linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện giảm lãi suất cho lĩnh vực này; chủ động cân đối nguồn vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng. Đồng thời, nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng, quản lý dòng tiền nhằm tăng cường khả năng cho vay không có tài sản bảo đảm để tháo gỡ khó khăn về tài sản bảo đảm cho khách hàng…
Tháo gỡ khó khăn, hạn chế để tiếp tục phát triển
Nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong thực hiện ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, thời gian qua Đảng, Nhà nước đã quan tâm chỉ đạo và ban hành nhiều cơ chế, chính sách đặc thù, thu hút đầu tư vào sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hỗ trợ cho các doanh nghiệp và hộ nông dân sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Trong đó, việc thu hút đầu tư cho nông nghiệp đặc biệt nông nghiệp công nghệ cao từ lâu được hưởng nhiều ưu đãi.
Chính phủ cũng đã dành nhiều nguồn lực và điều kiện cho việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ năng suất chất lượng nông sản; thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng lâu dài cho người sử dụng, tạo điều kiện cho tích tụ và tập trung đất nông nghiệp theo nguyên tắc thị trường để hình thành nền nông nghiệp hiện đại. Đặc biệt là những nỗ lực lớn trong công tác tổ chức và phát triển thị trường ở cả trong và ngoài nước. Việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, cho thấy sự tích cực của Nhà nước trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường cho nông sản để nông sản Việt Nam từng bước xâm nhập vào những thị trường có sức mua lớn, đòi hỏi cao về chất lượng như Nhật Bản, châu Âu, Mỹ, Australia...
Về phía ngành Ngân hàng - lực lượng quan trọng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành/trình cấp có thẩm quyền nhiều chính sách ưu đãi đối với lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thông qua các văn bản đã ban hành, NHNN đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại (NHTM) triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch với một số nội dung cụ thể.
Việc cho vay lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định tại Nghị định 55/2015/NĐ-CP và Nghị định 116/2018/NĐ-CP đạt được kết quả đáng khích lệ, cụ thể: đến cuối tháng 9/2024, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 27 nghìn tỷ đồng, với trên 9.100 khách hàng còn dư nợ; nợ quá hạn ở mức thấp (chiếm tỷ lệ khoảng 1,1% tổng dư nợ). Vốn tín dụng là một trong các nguồn lực quan trọng để người dân, doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, áp dụng cơ giới hóa, khoa học, kỹ thuật phục vụ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Giải pháp thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp
Phát triển NNCNC là cần thiết đối với các quốc gia trên thế giới và đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, quá trình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ và quyết liệt để giải quyết, cụ thể như sau:
Về cơ chế chính sách có liên quan đến nguồn vốn
Nhà nước cần có chính sách theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất tiếp cận được với nguồn vốn để làm nông nghiệp công nghệ cao. Các cơ quan chức năng cần rà soát quy trình và ban hành kịp thời, nhanh chóng các văn bản hướng dẫn thi hành. Cần có chính sách hỗ trợ chi phí thiết kế đồng ruộng, cơ sở hạ tầng, tạo vùng sản xuất tập trung chuyên canh sản xuất hàng hóa, thuận tiện cho áp dụng cơ giới hóa để sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hỗ trợ chi phí đo đạc, lập hồ sơ, chuyển đổi đất đai giữa các tổ chức, hộ nông dân, doanh nghiệp tham gia đầu tư trong vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Về phát triển thị trường, dịch vụ hỗ trợ hoạt động ứng dụng công nghệ cao trong tiêu thụ nông sản
Đối với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cần được hỗ trợ xúc tiến thị trường thông qua nhiều hình thức, như: tham gia hội nghị, hội thảo, hội chợ ở nước ngoài, hỗ trợ các doanh nghiệp và nông dân xây dựng thương hiệu sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao; Hỗ trợ và khuyến khích các hợp tác xã, tổ hợp tác xây dựng các website quảng bá sản phẩm. Các doanh nghiệp cần được tạo điều kiện để đăng ký thành các doanh nghiệp khoa học công nghệ, được tạo điều kiện tiếp cận thông tin về khoa học công nghệ nước ngoài; cần tiếp cận nhanh thông tin về các nghiên cứu, sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, thị trường… trong sản xuất, thương mại.
Về khoa học - công nghệ
Tiến hành xây dựng các mô hình ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ để đưa vào phục vụ nông nghiệp. Phối hợp với các sở, ngành, viện, trường, các tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp, các tổ chức nước ngoài tập hợp các dữ liệu, tài liệu, mô hình đã có. Khẩn trương đi vào quy củ trong việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong quản lý chất lượng sản phẩm nông nghiệp từng bước phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế (Global Gap); tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường và đảm bảo sức khỏe cộng đồng.
Về đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Đa dạng hóa các loại hình và thời hạn đào tạo. Hình thức đào tạo có thể dài hạn (tiến sĩ, thạc sĩ) hoặc ngắn hạn cho cán bộ trẻ có có năng lực học tập và nghiên cứu về ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp tại các viện, học viện, các trường đại học trong nước và các nước có trình độ khoa học - công nghệ phát triển. Bên cạnh đó, cần đào tạo nâng cao kỹ thuật, kỹ năng sử dụng vận hành công nghệ và làm chủ công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, kỹ năng ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp cho cán bộ quản lý khoa học - công nghệ, cán bộ kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu, nhân lực của doanh nghiệp, kỹ thuật viên của hợp tác xã, tổ hợp tác…
Đổi mới và hoàn thiện chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Cần phải thay đổi tư duy trong phát triển nông nghiệp, đó là chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp.
Với ngành nông nghiệp khi việc ứng dụng công nghệ 5.0 với khoa học kỹ thuật hiện đại song hành với người sản xuất, hàng chục triệu nông dân sẽ được tiếp cận, đào tạo kỹ năng để thích ứng với công nghệ mới, tạo ra những sản phẩm nông sản đa giá trị cho nền nông nghiệp bền vững… Chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ cần thiết để phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Trong đó, cần hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC), vùng nông nghiệp công nghệ cao gắn với các vùng chuyên canh của các nông sản chủ lực. Tại đây nhà nước và doanh nghiệp có cơ chế phối hợp để đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ. Ngoài ra, cần áp dụng những chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút và hỗ trợ các doanh nghiệp, tập đoàn lớn đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.
Tuy nhiên, để đạt được các yêu cầu như vậy, cần nhanh chóng đổi mới cơ chế và hoàn thiện hệ thống tổ chức của các viện nghiên cứu và trường đại học, thực sự gắn kết giữa nghiên cứu và đào tạo, tạo động lực để cán bộ khoa học tập trung vào sáng tạo, quan tâm đến hiệu quả cuối cùng của sản phẩm khoa học. Đồng thời, cần nhanh chóng đổi mới cơ chế và hoàn thiện tổ chức của hệ thống khuyến nông và dịch vụ tư vấn công nghệ, hình thành quan hệ phục vụ khách hàng với đội ngũ cán bộ chuyển giao kỹ thuật, gắn hiệu quả phục vụ người sản xuất với lợi ích thiết thân của họ; Đổi mới cung cách đào tạo cán bộ kỹ thuật để hình thành đội ngũ chuyên môn có tay nghề cao, phục vụ mọi đối tượng sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Đổi mới căn bản thủ tục hình thành, cơ chế quản lý và chính sách hỗ trợ để hình thành các khu NNCNC, vùng NNCNC tạo ra các cụm liên kết ngành, tổ hợp nông nghiệp CNC, công viên nông nghiệp CNC, vườn ươm khởi nghiệp sáng tạo đối tác công-tư./.
Ths Nguyễn Sỹ Thành