Các chính sách công được kỳ vọng sẽ không chỉ đảm bảo sự ổn định về mặt xã hội, mà còn đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và giải quyết những thách thức đang nổi lên, như: biến đổi khí hậu, đô thị hóa và bất bình đẳng xã hội.

Ảnh minh họa - VNHN
Các chính sách được nhà nước ban hành trong thời gian qua đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội, giải quyết nhiều vấn đề bức thiết, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân...Tuy nhiên, quá trình hoạch định và thực thi chính sách vẫn còn một số bất cập cần phải khắc phục.
Vai trò và cơ sở pháp lý của chính sách công
Để thực hiện các vai trò, chức năng quản lý của mình, nhà nước phải ban hành CSC với tính chất là một công cụ hữu hiệu để nhà nước quản trị (quản lý) và tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển. Theo đó, CSC là chính sách của nhà nước, là kết quả cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng cầm quyền thành các quyết định, tập hợp các quyết định chính trị có liên quan với nhau, với mục tiêu, giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, duy trì sự tồn tại và phát triển của nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. Đó cũng chính là vai trò quan trọng của CSC.
Ngoài vai trò cơ bản vừa nêu, CSC còn có các vai trò cụ thể khác là: Định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã hội; Tạo động lực cho các đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã hội theo mục tiêu chung; Phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường; Tạo lập các cân đối trong phát triển; Kiểm soát và phân bổ các nguồn lực trong xã hội; Tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội; Thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành.
Chưa hết, CSC còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội, pháp lý, khoa học và thực tiễn được thể hiện ở chỗ, đó là chính sách của nhà nước, phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách xử sự của nhà nước để phục vụ cho mục đích và lợi ích của nhà nước.
Việc xây dựng CSC tại Việt Nam được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật, trong đó quan trọng nhất là:
- Hiến pháp năm 2013: Đây là văn bản pháp lý tối cao quy định quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc ban hành chính sách, đảm bảo quyền lợi của công dân.
- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020): Quy định trình tự, thủ tục, và các yêu cầu đối với quá trình soạn thảo và ban hành chính sách công.
- Nghị định 34/2016/NĐ-CP, ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm việc lấy ý kiến, tham vấn công chúng và thẩm định văn bản.
Để có thể đi vào cuộc sống, CSC được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Nhưng không chỉ thể hiện trong các quy định pháp luật, CSC còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương hoạt động của nhà nước. Do đó, đánh giá CSC phải bao quát việc xem xét tổng thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung ương và chính quyền địa phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong thực tiễn quản lý nhà nước. Điều đó cho phép xem xét, nhận định về nội dung chính sách, về quá trình thực thi chính sách, từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục tiêu mong đợi.
Một số kết quả đạt được
- Quá trình thực thi CSC tại Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần vào sự phát triển toàn diện của đất nước trên nhiều lĩnh vực. Các CSC được ban hành đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong quản lý kinh tế, xã hội và an sinh, từ đó nâng cao đời sống của người dân. Đặc biệt, việc thực hiện thành công các chính sách cải cách kinh tế từ năm 1986 - khởi đầu công cuộc Đổi mới, đã tạo ra một nền tảng vững chắc trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của nước ta. Điều này được thể hiện qua những thành tựu nổi bật, như: tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, thu nhập bình quân đầu người tăng lên và Việt Nam trở thành một quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới...
- Trong lĩnh vực an sinh xã hội, nhiều chính sách đã được thực thi hiệu quả, giúp cải thiện điều kiện sống cho các nhóm đối tượng yếu thế. Các chính sách về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và hỗ trợ người nghèo đã tạo điều kiện thuận lợi để người dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp và sống ở vùng sâu, vùng xa, được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản. Ví dụ, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân đã giúp tăng tỷ lệ bao phủ y tế, từ đó giảm gánh nặng chi phí y tế cho người dân. Chương trình giảm nghèo bền vững cũng là một minh chứng cho những thành công trong việc hỗ trợ các hộ nghèo và cận nghèo, giúp nhiều gia đình thoát nghèo và cải thiện cuộc sống.
- Các chính sách về giáo dục và đào tạo cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ. Việc mở rộng mạng lưới trường học, cải thiện chất lượng giảng dạy, và áp dụng công nghệ trong giáo dục đã góp phần nâng cao trình độ dân trí và năng lực cạnh tranh của lực lượng lao động Việt Nam. Chính sách phổ cập giáo dục đã giúp Việt Nam đạt được những thành tựu đáng kể về tỷ lệ biết chữ và tiếp cận giáo dục ở các cấp học, đặc biệt là ở vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa.
- Một lĩnh vực khác thể hiện sự thành công trong thực thi chính sách là quản lý môi trường và phát triển bền vững. Chính phủ đã ban hành và thực thi nhiều chính sách bảo vệ môi trường, thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo và cải thiện chất lượng môi trường sống. Việc thực hiện các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, nhất là trong khuôn khổ Thỏa thuận Paris, đã thể hiện Việt Nam nghiêm túc trong việc xây dựng các chính sách môi trường bền vững và giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu; Các chính sách thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và sử dụng năng lượng tái tạo cũng đang dần có hiệu quả, góp phần tạo nên một nền kinh tế xanh hơn và bền vững hơn.
- Cùng với đó, việc thực thi chính sách trong lĩnh vực pháp luật và cải cách hành chính cũng có những kết quả tích cực. Chính phủ đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giúp giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp và người dân, đồng thời tăng cường minh bạch và công bằng trong quản lý nhà nước. Hệ thống dịch vụ công trực tuyến được triển khai rộng rãi. Chính sách một cửa, một cửa liên thông cũng đã được triển khai tại nhiều địa phương, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp trong việc giải quyết các thủ tục hành chính… Những kết quả đạt được trong thực hiện CSC đã góp phần tích cực cho những bước phát triển KT-XH nhanh và bền vững của nước ta.
Một số bất cập trong việc đánh giá và hoạch định chính sách công hiện nay
1.Trở ngại đầu tiên là nhiều chính sách không được quan tâm đánh giá đúng mức. Sở dĩ như vậy là do nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản, thể hiện ở chỗ:
-Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được thể chế hóa trong văn bản pháp luật, song không thể đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Việc đánh giá chính sách đòi hỏi có cách nhìn tổng thể mới tổ chức thực hiện tốt được.
-Thường coi việc đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ đợi khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai đánh giá.
-Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với đánh giá việc thực thi chính sách. Do vậy nhiều khi có các nhận xét phiến diện, không xác định rõ hạn chế là do quá trình thực thi hay do quy định trong chính sách….
2. Bên cạnh đó, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc, bài bản. Thậm chí nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính sách hoặc chủ trì tổ chức thực hiện chính sách) không đưa việc đánh giá chính sách vào chương trình hoạt động của mình; điều đó có thể đưa đến tình trạng không kịp thời trong việc nhận biết và điều chỉnh, khắc phục bất cập, hạn chế để công tác tổ chức thực hiện đạt mục tiêu đề ra. Cũng vì vậy, việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi đã xuất hiện bất cập nào đó ảnh hưởng đến quá trình thực thi.
3. Thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng hơn nếu các mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định lượng... Song, trên thực tế đa số các mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi mục tiêu không rõ ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề ra có thể không phản ánh hết các giá trị của chính sách. Để đánh giá chính sách, cần có các bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với từng loại chính sách. Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến cho việc đánh giá không toàn diện, đầy đủ, mang tính phiến diện, ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác chỉ đạo, điều hành cho đúng với thực tiễn… Đó là chưa kể đến việc đánh giá chính sách đôi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh nhận xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ xã hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng đến.
4. Thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách. Các cơ quan thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các công việc mới (nhằm tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét lại những gì đã làm.
5. Trong qua trình phát triển kinh tế – xã hội, còn nhiều vấn đề bức thiết đặt ra nhưng còn thiếu sự tác động từ chính sách của Nhà nước đối với các vấn đề đó, từ đó tạo ra các khoảng trống trong hoạt động quản lý.
6. Các văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên thay đổi; trong một số lĩnh vực có nhiều quy định thay đổi liên tục, cũng có thể gây khó khăn cho đối tượng thực thi và các đối tượng mà chính sách hướng tới. Nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư, các văn bản pháp luật và chính sách thay đổi liên tục sẽ tạo ra tâm lý lo ngại cho các doanh nghiệp, làm hạn chế nguồn đầu tư vào Việt Nam.
7. Nhiều chính sách còn thiếu tính hợp lý; vừa gây tốn kém cho Nhà nước khi nghiên cứu, ban hành, vừa gây ra tâm lý bất ổn trong cộng đồng. Bên cạnh đó, nhiều chính sách tuy được thực thi trên thực tế nhưng kém hiệu quả. Một số chính sách được ban hành còn chưa bảo đảm sự công bằng, khó khăn cho việc thực thi…
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạch định và thực thi chính sách công
Chính sách công là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách nói chung nhằm hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước; là công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và tạo điều kiện xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội tại những thời điểm nhất định. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình xây dựng và thực thi chính sách công tại Việt Nam, cần áp dụng một loạt các giải pháp đồng bộ.
Thứ nhất, tăng cường sự tham gia của các bên liên quan vào quá trình xây dựng chính sách. Muốn vậy, cần thiết lập các cơ chế tham vấn thực chất và rộng rãi với người dân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và các chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan.
Thứ hai, nâng cao năng lực phân tích và nghiên cứu chính sách. Theo đó, các cơ quan chuyên trách cần có khả năng thu thập và phân tích thông tin một cách chuyên sâu, từ đó đưa ra các đề xuất chính sách dựa trên các mô hình phân tích lợi ích - chi phí, các bài học từ quốc tế, và dự báo tác động dài hạn. Cần khuyến khích sự hợp tác với các viện nghiên cứu, các trường đại học và các tổ chức quốc tế, giúp tận dụng kiến thức và kinh nghiệm của các chuyên gia trong và ngoài nước.
Thứ ba, Chính phủ cần đẩy mạnh việc rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành để đảm bảo tính thống nhất và khả thi trong thực thi. Việc ban hành một hệ thống luật pháp rõ ràng, minh bạch và đồng bộ sẽ giúp giảm thiểu các trở ngại trong việc thực hiện chính sách, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng chính sách trong thực tiễn.
Thứ tư, tăng cường giám sát và đánh giá hậu chính sách, coi đây là một giải pháp quan trọng để cải thiện hiệu quả thực thi chính sách công. Việc thường xuyên đánh giá và điều chỉnh chính sách dựa trên các thông tin thực tế từ quá trình thực thi sẽ giúp phát hiện sớm những vấn đề phát sinh, từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh kịp thời. Cơ chế đánh giá cần có sự tham gia của các tổ chức độc lập để đảm bảo tính khách quan, minh bạch.
Thứ năm, tích cực nâng cao năng lực và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách. Đặc biệt, cần tăng cường các biện pháp phòng, chống tham nhũng trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách, từ đó bảo đảm rằng các chính sách được ban hành và thực hiện vì lợi ích chung của xã hội chứ không phải phục vụ cho các nhóm lợi ích riêng lẻ.
Thứ sáu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và thực thi chính sách, đây là một giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường minh bạch và nâng cao hiệu quả thực thi.
Thứ bảy, tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách và coi đây là một yêu cầu bắt buộc trong quá trình hoạch định chính sách, tạo điều kiện để mọi người dân nắm được thông tin và đóng góp vào các dự thảo chính sách liên quan trực tiếp đến mình./.
TS Nguyễn Hồng Nam