VNHN - Nhắc đến Ông là nhắc đến hình ảnh, chân dung của một nhà quản lý, nhà khoa học tâm huyết, nhiệt thành trong lĩnh vực khí tượng thủy văn. Xuyên suốt chặng đường sự nghiệp với nhiều dấu ấn vẻ vang đã qua, ông đã có những đóng góp đáng tự hào trong NCKH, giảng dạy và đào đạo. Những công trình nghiên cứu về khí hậu, biến đổi khí hậu của ông đã góp phần không nhỏ cho việc tăng cường năng lực của ngành khí tượng thủy văn, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường. Ông là GS.TS Nguyễn Trọng Hiệu - Phó Giám đốc Trung tâm Khoa học Công nghệ Khí tượng Thủy văn và Môi trường, Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Trọng Hiệu sinh năm 1938 trong một gia đình làm nghề giáo tại xã Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh - quê hương miền Trung nắng gió nhưng giàu truyền thống lịch sử, cách mạng và hiếu học của cả nước. Nhâm nhi chén trà ấm nóng, ông tự hào chia sẻ cùng tôi về nền tảng gia đình mình: Cha ông là Nguyễn Trọng Miễn sinh năm 1904, từng là trợ giáo trong thời Pháp thuộc, sau CMT8 thành công, cụ tiếp tục đi dạy rồi sau đó tham gia chính quyền, làm đến Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Người anh cả của ông trước đây là Thẩm phán Tòa án Quân sự Liên khu IV, anh thứ hai là Đại tá Bộ đội Biên phòng, anh thứ ba công tác ở Công ty Gang thép Thái Nguyên, em út là Sỹ quan cơ yếu của Bộ Tổng tham mưu. Chính nền tảng gia đình ấy đã càng hun đúc, tôi luyện trong ông ý chí, nghị lực phấn đấu không ngừng nghỉ để góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước sau này.

GS.TS Nguyễn Trọng Hiệu
Vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đau thương thuở ấu thơ khi đất nước còn chìm trong bom đạn chiến tranh, ông luôn say mê, miệt mài học tập chuẩn bị hành trang cho chặng đường phía trước. Tuy không thể đăng ký thi ĐH vì chưa học hết phổ thông do điều kiện chiến tranh, nhờ người chú họ trong làng giới thiệu nên ông được theo học Khóa Quan trắc viên của Nha khí tượng. Nhờ nhân duyên ấy mà ông đến với ngành khí tượng thủy văn để rồi trọn một đời gắn bó sự nghiệp với lĩnh vực này. Năm 1960, ông thi đỗ vào trường Ngoại ngữ Gia Lâm vào học khoa Trung Văn để trau dồi ngoại ngữ. Một năm sau, ông may mắn được cử đi Trung Quốc theo học ngành Khí tượng tại trường ĐH Nam Kinh. Bên nước bạn xa xôi, ông tiếp tục say mê học tập, nghiên cứu và trau dồi, tích lũy tri thức để ngày về đóng góp cho quê hương. Năm năm bên giảng đường nhanh chóng qua đi, ông về nước năm 1966 và tham gia làm việc tại Đài Nghiên cứu Khoa học Khí tượng Trung Ương.
Năm 1977, Đài NCKH Khí tượng TƯ sát nhập với Phòng nghiên cứu Thủy văn của Bộ Thủy lợi và trở thành Viện Khí tượng Thủy văn. Hơn 30 năm công tác tại đây, GS. Hiệu đã cùng đồng nghiệp thực hiện hiệu quả nhiều nhiệm vụ khoa học, chủ nhiệm 3 đề tài khoa học cấp NN: Đặc điểm Khí hậu Tây Bắc; Xây dựng Tập số liệu và Tập Atlas Khí hậu Việt Nam; Nghiên cứu nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn hoang mạc hóa ở Trung Trung Bộ Việt Nam; Chủ nhiệm 4 đề tài cấp Tổng Cục; Nghiên cứu phân bố không gian và diễn biến thời gian của gió Tây khô nóng ở Miền Bắc Việt Nam; Nghiên cứu phương pháp xây dựng và cung cấp thông tin khí hậu cho các ngành kinh tế quốc dân; Nghiên cứu quy hoạch lưới trạm Khí tượng Thủy văn Việt Nam; Nghiên cứu hạn hán và tác động ở Việt Nam…và tham gia thực hiện nhiều đề tài khoa học các cấp khác nhau. Trong đó, tiêu biểu nhất phải kể đến những đề tài quan trọng như: Tham gia lập các bản đồ khí hậu trong Chương trình Khí hậu của Tập Atlas Quốc gia Việt Nam (Công trình được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN năm 2005); Chủ nhiệm đề tài Nghiên cứu Quy hoạch lưới trạm Khí tượng Thủy văn, bao gồm 5 lưới trạm thành phần: Lưới trạm khí tượng bề mặt; lưới trạm khí tượng cao không; lưới trạm khí tượng nông nghiệp; lưới trạm thủy văn và lưới trạm hải văn trên cơ sở các phương pháp chính thống do Tổ chức Khí tượng thế giới giới thiệu. Năm 1987, sau khi nhiệm vụ hoàn thành và nghiệm thu, Tổng Cục Khí tượng Thủy văn đã ban hành văn bản “Quy hoạch lưới trạm Khí tượng Thủy văn cơ bản”. Trên cơ sở thành tựu NCKH quy hoạch lưới trạm khí tượng, ông đã bảo vệ thành công Luận án TS chuyên ngành khí tượng khí hậu học, tại Viện Khí tượng Thủy văn; Chủ nhiệm đề tài “Xây dựng Tập số liệu Khí hậu và Tập Atlas Khí hậu Việt Nam thuộc Chương trình Khoa học trọng điểm cấp NN mang MS 42A “Đánh giá tài nguyên và điều kiện tự nhiên về khí tượng thủy văn phục vụ sản xuất và quốc phòng, trọng điểm là phục vụ nông nghiệp”. Sau khi đề tài này được hoàn thành, Tập Số liệu khí hậu đã được Tổng Cục Khí tượng Thủy văn xuất bản năm 1989 và Tập Atlas Khí hậu được UNESCO phối hợp với Tổng Cục Khí tượng Thủy văn xuất bản năm 1992.
Quá trình từ năm 1990 đến năm 1999, GS. Hiệu đã tham gia nhiều hoạt động trong lĩnh vực biến đổi khí hậu (BĐKH), từ tham gia các hội thảo, hội nghị quốc tế, khu vực, quốc gia, các khóa đào tạo nghiệp vụ BĐKH và các dự án biến đổi khí hậu. Năm 1991, ông đã cùng GS. Nguyễn Đức Ngữ công bố báo cáo “BĐKH và tác động của chúng ở Việt Nam trong 100 năm qua”. Đến năm 1992, ông là đồng tác giả tham gia báo cáo “Tác động tiềm tàng của BĐKH ở Việt Nam” công bố tại Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường & Phát triển của LHQ năm 1992 và ký kết Công ước khung của LHQ về BĐKH (UNFCCC). Thời gian đó, ông đảm đương qua nhiều vai trò như: Phó Viện trưởng Viện Khí tượng Thủy văn, Viện trưởng Viện Khí tượng Thủy văn. Trong công tác đào tạo, từ năm 1970 đến năm 1992, ông đã tham gia giảng dạy ĐH và hướng dẫn sinh viên thực hiện luận văn tốt nghiệp ĐH tại Bộ môn Khí tượng Khoa Địa lý Địa chất, ĐH Tổng hợp Hà Nội (nay là ĐH KHTN, ĐHQG Hà Nội) và Trường Cán bộ Khí tượng Thủy văn (nay là ĐH TNMT). Từ năm 1993 đến 2004, ông đã hướng dẫn thành công 5 NCS bảo vệ luận án TS. Nhờ đó, ông vinh dự được nhận học hàm Phó Giáo sư năm 1992 và học hàm Giáo sư năm 1996.

GS.TS Nguyễn Trọng Hiệu vinh dự được trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba
Sau khi nghỉ hưu, GS.TS Nguyễn Trọng Hiệu vẫn miệt mài, tận tụy làm việc, nghiên cứu. Ông đã tham gia nhiều nhiệm vụ khoa học với các cương vị khác nhau: Chủ nhiệm đề tài Nghiên cứu cơ bản cấp Nhà nước “Xu thế và chu kỳ hạn hán ở Việt Nam trong những năm gần đây; Chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu những đặc trưng cơ bản và tác động của ENSO đến hạn hán, mưa lớn ở Việt Nam và khả năng dự báo; Trợ lý chủ nhiệm đề tài cấp NN “Nghiên cứu ảnh hưởng của BĐKH đến điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và đề xuất các giải pháp chiến lược phòng tránh, giảm nhẹ và thích nghi phục vụ phát triển bền vững KT – XH Việt Nam; đề tài cấp NN “Nghiên cứu Atlas khí hậu và BĐKH Việt Nam”. Với nhiệm vụ giảng dạy, ông vẫn tiếp tục tham gia công tác đào tạo sau ĐH tại ĐHQG Hà Nội và Viện KH Khí tượng Thủy văn và BĐKH. GS. Hiệu đã hướng dẫn 1 NCS bảo vệ thành công luận án TS và 7 học viên bảo vệ thành công luận văn ThS.
Bên cạnh đó, GS.TS Nguyễn Trọng Hiệu còn dành nhiều tâm sức tham gia công tác xuất bản sách cũng như công bố nhiều báo cáo khoa học chuyên ngành. Nổi bật là một số cuốn sách như: BĐKH và tác động ở Việt Nam (NXB KHKT, 2010); BĐKH Việt Nam, 2009; BĐKH ở Hà Tĩnh, 2009; Gió mùa và hoàn lưu khí quyển trên khu vực Đông Á và Việt Nam 2012; Giáo trình Thống kê khí hậu, 2012. Đặc biệt, ông đã cùng GS. Nguyễn Đức Ngữ viết cuốn sách “Khí hậu và tài nguyên Khí hậu Việt Nam”, NXB Nông nghiệp, 2004 và NXB Khoa học tái bản năm 2014, Biến đổi Khí hậu…
Từ năm 1999, GS. Hiệu đã tham gia vào Ban Chỉ đạo Quốc gia của Chương trình tài trợ các dự án nhỏ của Quỹ Môi trường Toàn cầu tại Việt Nam: GEF SGP VN. Ông còn tham gia hoạt động “Đánh giá vai trò của Tổ chức Phi Chính phủ trong Chương trình Quốc gia Ứng phó với BĐKH” do Ban KHCN, LHKH & KT Việt Nam chủ trì năm 2012, tham gia các lớp huấn luyện PV do Cục Quản lý Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ TT & TT tổ chức năm 2012. Ngoài ra, ông còn tham gia phản biện hoặc đánh giá đề cương, kết quả nghiên cứu của một số đề tài, dự án trong lĩnh vực thiên tai, khí tượng thủy văn và môi trường.
Ghi nhận những đóng góp, cống hiến ý nghĩa, đáng trân trọng của GS.TS Nguyễn Trọng Hiệu nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước đã trao tặng ông nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý như: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ; Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH & CN năm 2005, Huân chương Lao động hạng Ba năm 2017, Huy chương Vì sự nghiệp Khoa học Công nghệ, Huy chương Vì sự nghiệp Khí tượng Thủy văn…cùng nhiều Bằng khen, Giấy khen khác.



