Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân Trần Nghi
…Từ tuổi thơ gian khó và sự nỗ lực, ý chí phấn đấu đầy mạnh mẽ, bền bỉ của cậu học trò ở một vùng quê nghèo khó…
GS.TS.NGND Trần Nghi xuất thân trong một gia đình hiếu học, có ông nội là tú tài chữ nho, làm Lý trưởng làng Minh Lệ, bố là một vị quan cửu phẩm trong triều đình Huế.Những năm cải cách ruộng đất, gia đình ông lâm vào cảnh khó khăn. Ở vùng quê nghèo, tuổi thơ của Trần Nghi là những ngày thiếu đói, bữa ăn khoai sắn nhiều hơn cơm. Thuở học phổ thông ở quê, hằng ngày, cứ sau mỗi buổi học là ông lại đi làm cho hợp tác xã để có công điểm cho gia đình. Trong 3 năm học cấp 2 vì xã chưa có trường nên ông phải đi bộ chân đất theo con đường sắt lát đá lên học cấp 2 xã Quảng Sơn, cách nhà 4 cây số. Nhà neo người, mẹ ốm nặng, chị cả đi lấy chồng 2 anh trai đi bộ đội, nên tuy mới 12 tuổi nhưng ông đã là một lao động chính trong gia đình, phải làm tất cả mọi công việc để giúp đỡ cha mẹ. Như vào rừng lấy củi về chợ bán kiếm tiềm, chèo đò ngang, cày bừa, cấy giắm và gặt hái mỗi năm 2 vụ. Ông nổi tiếng là con ngoan trò giỏi. Do hàng ngày phải đi học buổi sáng nên ông không đi làm cùng hợp tác xã được. Nhà ông phải nhận khoán ruộng, buổi chiều về ông làm một mình để lấy công điểm giúp gia đình. Nhờ Trời phú cho có một trí nhớ siêu phàm nên ông thường thuộc bài ngay trên lớp; buổi tối ông chỉ cần xem lại một lần là đã nắm vững kiến thức. Ông học giỏi cả các môn tự nhiên và xã hội. Cả 4 năm học cấp 1 và 3 năm học cấp 2 ông đều đạt học sinh giỏi của trường. Những năm học cấp 3 (Trung học phổ thông ngày nay) của ông là thời gian Đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc nước ta, trong đó tỉnh Quảng Bình bị máy bay Mỹ ném bom rất ác liệt. Ông phải học trong những lớp học dã chiến (nửa chìm nửa nổi) để tránh thương vong khi có máy bay oanh tạc, buổi tối học bài dưới hầm bằng đèn dầu và phải lấy chăn che cửa hầm không cho ánh sáng lọt ra ngoài. Hoàn cảnh học tập vất vả và nguy hiểm như vậy nhưng năm lớp 8 và lớp 9 ông đều đạt học sinh giỏi.
Đặc biệt, năm học lớp 10, Trần Nghi được nhà trường chọn vào cả ban chuyên toán và ban chuyên văn. Vào đợt thi học sinh giỏi cấp tỉnh, do lịch thi văn và thi toán trùng nhau số thành viên thi văn lại ít hơn nên nhà trường chỉ định ông thi môn văn. Kết quả ông đã đạt giải Nhất môn văn tỉnh Quảng Bình và tiếp tục được chọn thi học sinh giỏi văn Miền Bắc. Ấn tượng nhất đối với ông là cuối năm học lớp 10, ông được tặng thưởng danh hiệu phần thưởng Bác Hồ, phần thưởng cao quý nhất giành cho học sinh cuối cấp đạt 100% điểm 5 (tức điểm 10 bây giờ) cả 10 môn học. Bí quyết học giỏi toàn diện của ông là chịu khó, say mê học tập, thuộc bài ngay trên lớp học. Cậu học trò không có thái độ học lệch mà nắm chắc kiến thức của tất cả các môn học. Đồng thời mỗi một môn học ông đều tìm ra một phương pháp tư duy phù hợp với tính đặc thù của môn học đó. Sau khi hoãn học khoa vật lý Trường ĐH Bắc Đại (Trung Quốc), ông được phân vào học Khoa Địa Lý-Địa Chất, Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội khóa 1966 - 1970. Tốt nghiệp vào loại ưu ông được Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Văn Chiển - nhà địa chất đầu tiên và thầy địa chất đầu tiên của Việt Nam - giữ lại làm cán bộ giảng dạy cùng nhóm chuyên môn với Thầy. Con đường khoa học rộng mở với ông từ đó.
Vào năm 1977, Trần Nghi được cử dự khóa thi nghiên cứu sinh đi làm luận án tiến sĩ nước ngoài và ông đã đỗ thủ khoa về lĩnh vực Khoa học Trái Đất. Ông xúc động kể lại, năm đó dự thi cả nước là 1.500 người cho tất cả các lĩnh vực khoa học, nhưng chỉ đỗ có 200 người. Các thí sinh thi trượt chủ yếu là môn toán. Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đã coi môn toán là thước đo về trí tuệ là yếu tố cần để trở thành một nhà khoa học Tự nhiên giỏi. Riêng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội có 45 CBGD được tuyển chọn dự thi nhưng cũng chỉ đỗ được 5 người trong đó có ông. Đề tài nghiên cứu sinh của ông là địa chất dầu khí nên ông được phân công sang nghiên cứu sinh tại Trường ĐH Tổng hợp Bucaret, Rumani và ông đã bảo vệ xuất sắc luận án Tiến sĩ năm 1982. Năm 1996, ông được phong hàm Giáo sư, trở thành một trong ba Giáo sư trẻ nhất của ngành Khoa học Trái đất ở Việt Nam. GS.Trần Nghi vinh dự được Nhà nước phong là Nhà giáo Nhân dân, danh hiệu cao quý nhất của một nhà giáo bậc đại học ở Việt Nam. Ông cũng là NGND trẻ nhất trong ba NGND của Trường ĐHKHTN được bầu chọn năm 2008.
…đến nhà giáo, nhà khoa học uyên bác, mẫu mực - người định hình hướng đi và tầm nhìn phát triển của ngành địa chất nước nhà…
GS.Trần Thanh Hải - Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ Địa chất trong buổi đón nhận 10 cuốn sách chuyên khảo của GS Trần Nghi tặng cho Trường ĐH Mỏ Địa chất– đã phát biểu như sau: “ GS.TS.NGND Trần Nghi, là một nhà giáo, một nhà địa chất đầu ngành của Việt Nam lỗi lạc và uyên bác”.Quả đúng như vậy, xuyên suốt những năm tháng miệt mài, say mê tham gia nghiên cứu khoa học, đến nay, GS.TS Trần Nghi là tác giả của hơn 160 bài báo công bố trên các tạp chí quốc tế và trong nước; Chủ nhiệm, chủ biên 5 đề tài khoa học cấp Nhà nước, tham gia thực hiện 10 đề tài cấp Nhà nước khác. Ông cũng thực hiện 3 dự án cấp Nhà nước, Chủ nhiệm 3 đề tài khoa học cấp Bộ; Chủ nhiệm Chương trình Biển KC-09/11-15 do Bộ KH & CN bổ nhiệm. Trong công tác đào tạo, Giáo sư Trần Nghi đã hướng dẫn bảo vệ luận văn thạc sĩ cho 40 học viên cao học, hướng dẫn và bảo vệ thành công 35 luận án tiến sĩ và hiện đang hướng dẫn 2 nghiên cứu sinh đang làm thủ tục để bảo vệ luận án TS trước Hội đồng cấp nhà nước.Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã đánh giá GS-TS Trần Nghi là người đạt kỷ lục hướng dẫn nhiều nghiên cứu sinh nhất trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội và tất cả nghiên cứu sinh do GS Trần Nghi hướng dẫn đều bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ của mình. Khi hỏi GS Trần Nghi GS có bí quyết gì mà có được những kết quả ấn tượng như vậy? Ông trả lời hết sức đơn giản: “ Người Thầy hướng dẫn NCS phải hội tụ được 3 yếu tố là: (1) có trình độ cao về kiến thức cơ bản và kinh nghiệm thực tiễn; (2) có khả năng đổi mới và sáng tạo trong NCKH; (3) luôn có một ngân hàng đề tài luận án TS được chiết suất ra từ các đề tài cấp nhà nước đã và đang chủ trì”. Nhờ có kinh nghiệm và kiến thức sâu và rộng nhiều lĩnh vực khoa học Trái Đất nên ngoài những nghiên cứu sinh mà mình hướng dẫn GS Trần Nghi còn giúp rất nhiều nghiên cứu sinh do thầy khác hướng dẫn vượt qua những bế tắc khi đã gần hết thời hạn.
Chia sẻ về chặng đường nghiên cứu khoa học của mình, GS.TS Trần Nghi tự hàocho biết, ông là người đầu tiên cùng các cộng sự thành lập ra "Bản đồ địa chất Biển Đông và các vùng kế cận tỷ lệ 1/1.000.000" cùng "Bản đồ địa chất Pliocen - Đệ Tứ vùng biển Việt Nam và kế cận tỷ lệ 1/1000000" theo một nguyên tắc thành lập và hệ thống chú giải riêng đổi mới và sáng tạo.Ông là người chủ biên "hồ sơ di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng Quảng Bình Việt Nam" từ 1999-2001. Đến tháng 7 năm 2003 UNESCO họp hội đồng bỏ phiếu và Hồ sơ do ông chủ trì đã được công nhận. Điểm nhấn của hồ sơ là bài toán xác định được tuổi của các thế hệ hang động Phong Nha -Kẻ Bàng. Ông là người đầu tiên xác định được tuổi cổ nhất của hang động Phong Nha - Kẻ Bàng là 32 triệu năm, đồng thời xác định được 8 thế hệ tuổi trẻ dần từ 5 triệu năm đến nay của hang động khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng và lân cận."Để được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới thì chúng tôi đã phải nghiên cứu và chứng minh được 5 nội dung quan trọng, gồm: (1) Tính toàn cầu của khu vực hang động Phong Nha-Kẻ Bàng; (2) Tính đa dạng địa chất, địa mạo và lịch sử phát triển lâu dài của vỏ Trái Đất khu vực Phong Nha- Kẻ Bàng và toàn tỉnh Quảng Bình; (3) Xác định tuổi của toàn bộ của hệ thống hang động, trong đó phải chứng minh được hang động Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi cổ nhất trong số các hang động ở Đông Nam Á; (4) Phong cảnh đẹp và tính độc đáo của hệ thống hang động"–GS. Trần Nghi kể lại. Điều đặc biệt của ông là làm khoa học gắn với kiêm nhiệm công tác quản lý từ chủ nhiệm bộ môn, phó chủ nhiệm khoa, chủ tịch công đoàn, bí thư chi bộ, chủ nhiệm khoa cho đến phó hiệu trưởng nhà trường. Cùng trong khoảng thời gian đó, ông đã viết và xuất bản một số giáo trình ở bậc đại học và sau đại học đồng thời ông đã hoàn thành nhiều bản thảo của các chuyên khảo lớn để đến năm 2021 ông đã xuất bản được 23 đầu sách cả giáo trình và chuyên khảo. Đến năm 2024 ông lại có thêm 2 đầu sách tiếng Anh dài 1600 trang do ông dịch từ 2 quyển chuyên khảo tiếng Việt mới nhất.Khi đánh giá về cuốn sách "Địa chất trầm tích Việt Nam" của Giáo sư Trần Nghi, PGS. Nguyễn Địch Dỹ - nguyên Chủ tịch Hội Đệ Tứ - Địa mạo Việt Nam đã viết: "Cuốn sách "Địa chất trầm tích Việt Nam" của GS. Trần Nghi đã giới thiệu những kết quả nghiên cứu chọn lọc của tác giả hơn 40 năm trở lại đây.Những kết quả này được tích hợp thành những nguyên lý, công thức lý thuyết và các hệ số trầm tích định lượng góp phần hoàn thiện và khắc phục những tồn tại trong nghiên cứu trầm tích luận của thế giới. Các hệ số đó đã và đang được các nhà nghiên cứu, học viên cao học và nghiên cứu sinh sử dụng một cách có hiệu quả trong lĩnh vực trầm tích dầu khí và trầm tích Đệ Tứ ở Việt Nam".GS.TSKH Phan Trường Thị đã viết lời giới thiệu cuốn “Atlas of Sdimentary rocks of Việt Nam” (dài1000 trang) trong đó lời kết có câu như sau: “Công trình này không chỉ là một công trình đổi mới và sáng tạo về lý luận mà còn có ý nghĩa như là một bách khoa thư dùng để đào tạo ở bậc sau đại học và tra cứu những điều cần biết về thạch học và thạch luận các đá trầm tích trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam”.
Một trong những cuốn sách tiêu biểu của GS.TS.NGND Trần Nghi - Địa chất Trầm tích Việt Nam.
Ở Việt Nam, có thể nói GS.TS Trần Nghi luôn được xem là nhà giáo, nhà khoa học hàng đầu về lĩnh vực địa chất và khoa học Trái Đất. Ông đã và đang đảm đương nhiều cương vị quan trọng như: Phó chủ tịch Tổng hội Địa chất Việt Nam phụ trách Khoa học và Công nghệ; Chủ tịch Hội Trầm tích Việt Nam; Viện trưởng Viện Nghiên cứu Địa môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu thuộc Liên hiệp các Hội KH & KT Việt Nam; nguyên Phó hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội; nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển và Đảo, ĐHQG Hà Nội…
Trân trọng những dấu ấn đóng góp đáng tự hào suốt chiều dài sự nghiệp của GS.TS.NGND Trần Nghi, Đảng, Nhà nước, các Bộ, ban ngành đã trao tặng ông nhiều danh hiệu cao quý như: Danh hiệu CSTĐ toàn quốc, Huân chương Lao động hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Nhì, danh hiệu NGƯT, NGND, Bằng khen của Bộ GD & ĐT, UBND tỉnh Quảng Bình, Danh hiệu Trí thức tiêu biểu và bằng khen của Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam 2019… và nhiều phần thưởng và bằng khen khác ghi nhận những đóng góp của Giáo sư rất nổi bật cả sự nghiệp đào tạo và sự nghiệp nghiên cứu khoa học cho đất nước.