1. Bản sắc dân tộc là gì ?
Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý… của một dân tộc, được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng và để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại.
Bản sắc văn hóa dân tộc được biểu hiện ở lòng yêu nước nồng nàn, ý trí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc. Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thì sự ảnh hưởng của nó đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là tất yếu khách quan và sự tác động đó tạo điều kiện cho nước ta trong việc mở rộng giao lưu giữa các nền văn hóa, sáng tạo ra giá trị mới, trực tiếp bổ sung, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc, thông qua sự hội nhập đó cũng kiểm chứng tính bền vững của giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực và trên thế giới, hiện đại hóa các phương tiện văn hóa thông tin trong toàn xã hội.
2. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
2.1. Thực trạng bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam có một nền văn hoá đặc sắc, lâu đời gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc. Xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hoá chồng lên nhau: lớp văn hoá bản địa, lớp văn hoá giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hoá giao lưu với phương Tây. Ba lớp văn hóa này cũng chính là ba giai đoạn phát triển của văn hóa Việt Nam: từ nền Văn hóa Đông Sơn với sự hình thành của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, tiếp theo đến thời kỳ chống Bắc thuộc qua các triều đại nhà nước phong kiến độc lập, cuối cùng là văn hóa Việt Nam hiện đại với khởi nguồn là chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Nhờ gốc văn hoá bản địa vững chắc nên Việt Nam không bị ảnh hưởng văn hoá ngoại lai đồng hoá, trái lại còn biết sử dụng và Việt hoá các ảnh hưởng đó làm giàu cho nền văn hoá dân tộc.
Việt Nam gồm 54 dân tộc với những sắc thái văn hóa riêng, tuy nhiên vẫn có sự thống nhất.
Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng là một quốc gia chịu sự tác động lớn của quá trình này. Trong quá trình đó, như một lẽ tất nhiên, bên cạnh những mặt tích cực “được rất nhiều” là những mặt trái, “mất không ít”. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao bản lĩnh và “bộ lọc”, nhằm phát huy tốt nhất sự bồi đắp, làm giàu văn hóa dân tộc và khắc chế tối đa những hệ lụy, tiêu cực.
Hiện nay, hội nhập quốc tế là quy luật khách quan nhưng trong tương quan lại nghiêng về các nước phát triển, các nước lớn. Cho nên Việt Nam cần tỉnh táo, thông minh trong quá trình hội nhập để không bị hòa tan. Hội nhập văn hóa trải qua các chặng: Giao lưu, hợp tác và đối thoại. Đối thoại là bình đẳng, không có cao thấp, nhưng muốn đối thoại được phải có bản sắc riêng. Hội nhập văn hóa có những đặc thù riêng, không giống hội nhập trong các lĩnh vực khác. Hội nhập văn hóa thống nhất giữa “nhận” và “cho”. “Nhận” cái mới của nước ngoài nhưng chúng ta cũng phải “cho” thế giới, đóng góp cho thế giới những điều đặc sắc trong văn hóa Việt Nam. Thực tiễn hội nhập văn hóa thời gian qua, chúng ta đang “nhận” nhiều mà “cho” ít. Ví như lĩnh vực sân khấu, ca nhạc, điện ảnh, nhiều nghệ sĩ bắt chước các yếu tố ngoại lai, ít có sáng tạo mang dấu ấn bản sắc văn hóa Việt.
Hội nhập ở Việt Nam đã thúc đẩy và tạo ra những tiền đề vô cùng mạnh và rộng để văn hóa Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới.
Những thay đổi mạnh mẽ về tư duy. Có lẽ chưa bao giờ trong nhận thức xã hội, các quan niệm, khái niệm về tự do tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, phát triển con người, phát triển bền vững, tự do văn hóa, báo chí, sáng tác… lại được bàn luận trên nhiều diễn đàn với các quy mô khác nhau như hiện nay. Điều này không chỉ có tác dụng đánh thức tư duy, nhận thức mới về sứ mệnh của văn hóa mà còn khắc phục được sự phiến diện, thiên lệch hoặc tầm nhìn hạn hẹp khi xác định vai trò của văn hóa trong phát triển. Từ năm 1998, với Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ nền tảng này, văn hóa còn được xác định là một trong bốn trụ cột của phát triển bền vững, có vị trí ngang với kinh tế, chính trị và xã hội. Từ đây, văn hóa không chỉ có chức năng nhận thức, giáo dục, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người mà còn là nguồn lực nội sinh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Những đổi mới trên phương diện quản lý văn hóa. Song song với việc xác định được mô hình phát triển của nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, những đổi mới mạnh mẽ trên phương diện quản lý văn hóa đã tạo ra những bước ngoặt quan trọng trong hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị của di sản văn hóa; tham gia tích cực vào việc tạo ra những sản phẩm du lịch đặc trưng, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng và cả nước, tăng trưởng GDP địa phương và thúc đẩy phát triển du lịch
Những động lực mới để văn hóa phát triển đa dạng. Quá trình đổi mới, hội nhập và tiếp biến văn hóa trên nhiều khía cạnh đã tạo ra những động lực mới để văn hóa phát triển đa dạng, phong phú; xuất hiện nhiều loại hình, trong đó có cả những thiết chế văn hóa mới. Các sản phẩm văn hóa không chỉ góp phần quan trọng tạo không khí dân chủ, cởi mở hơn, dân trí được nâng cao, tính năng động sáng tạo, tự chủ mà còn phát huy tính tích cực xã hội của con người, hình thành các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam. Sản phẩm văn hóa tăng đáng kể về số lượng, có dấu hiệu tích cực về chất lượng, đã và đang hình thành thị trường sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật… Văn học, nghệ thuật đã tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị, phản ánh mọi lĩnh vực đời sống, đang nỗ lực đổi mới tư duy sáng tạo, tìm tòi phương thức mới để nâng cao năng lực khám phá cuộc sống. Hệ thống thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh về loại hình, chất lượng, tính hiện đại, trực tiếp, nhanh nhạy chuyển tải, truyền bá văn hóa đến với công chúng ngày càng rộng hơn, góp phần không nhỏ vào quá trình hình thành tư duy phản biện xã hội trên phương tiện thông tin đại chúng…
Thành tựu trong đối ngoại văn hóa. Bằng cách tích cực và chủ động mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, đường hướng “phát triển văn hóa đối ngoại” đã trở thành phương châm chính trong chiến lược đối ngoại của các ngành quản lý văn hóa, du lịch, ngoại giao. Kết quả đem lại là hàng loạt các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của Việt Nam đã đến được với bạn bè quốc tế, đem lại sự ngạc nhiên thán phục của thế giới về tính độc đáo, đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Hàng loạt các di sản văn hóa Việt Nam đã được ghi danh, xếp hạng là di sản văn hóa của nhân loại như: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); Quan họ (Bắc Ninh), Ca trù, Nhã nhạc cung đình Huế… và gần đây nhất là “thực hành tín ngưỡng Tam phủ”…
Bên cạnh đó, tiếp biến văn hóa còn mở ra những kênh trao đổi học thuật với nhiều quốc gia văn minh trên thế giới, qua các phương thức khác nhau từ du học sinh đến trao đổi học giả… Trong lối sống và phong cách sống (theo nghĩa hẹp thể hiện từ ăn, mặc, ở đến đi lại, ứng xử…), tiếp biến văn hóa của Việt Nam với thế giới đã đem lại những thành tựu rực rỡ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế là hàng loạt các thay đổi trên các phương diện thụ hưởng cuộc sống, nâng cao chất lượng sống và thay đổi ứng xử liên quan đến bình đẳng giới…
Bên cạnh những thành quả to lớn mang lại về kinh tế, văn hóa, xã hội, quá trình hội nhập nhanh và rộng của Việt Nam trong hơn 30 năm qua cũng dẫn đến nhiều hệ lụy không chỉ cho văn hóa, xã hội mà cả kinh tế, môi trường và con người ở Việt Nam. Đó là sự hình thành ngành công nghiệp văn hóa, thị trường sản phẩm văn hóa mà chưa có mô hình quản lý thích hợp, theo kịp, gây ảnh hưởng không nhỏ tới thị hiếu thẩm mỹ Á Đông, nhất là sự khủng hoảng về đạo đức và lối sống.
Có thể thấy, bên cạnh việc hình thành tư duy sống chất lượng, lối sống ích kỷ, vụ lợi cá nhân cũng bắt đầu hình thành và ngày càng xâm nhập vào nhiều tầng lớp trong xã hội. Lối sống thiên về hưởng thụ, sống gấp đang huỷ hoại dần nhân cách của nhiều người dẫn đến nhiều giá trị truyền thống dần trở nên mai một. Trong khi đó, khủng hoảng niềm tin cũng đang là một trở ngại lớn đối với việc thiết lập các quan hệ xã hội và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị. Điều tra giá trị châu Á năm 2008 của Viện Nghiên cứu con người cho biết: có tới 58,5% người Việt Nam cho rằng không thể tin vào bất kỳ ai mới tiếp xúc. Bệnh “ngợp bởi vật chất” cũng khiến không ít người, nhất là giới trẻ hiện nay thiên lệch về nhu cầu vật chất, thể hiện xu hướng thái quá hơn trên mọi khía cạnh. Những “trào lưu”, “thị hiếu”, “thời thượng” chế ngự không ít những cá nhân đang tìm đủ cách kiếm tiền, sống gấp...
Tệ xâm hại tình dục, ngược đãi trẻ em, hành vi lệch chuẩn của học sinh, sinh viên có xu hướng gia tăng; bạo lực học đường phổ biến ở cả những học sinh nữ; một bộ phận thầy, cô giáo suy giảm nhân cách, đạo đức làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh nghề giáo… làm gia tăng sự khủng hoảng niềm tin trong xã hội.
2.2. Quan điểm chủ trương bản sắc văn hóa dân tộc
Lịch sử cho thấy, sức mạnh nội sinh là văn hóa yêu nước, đó là sức mạnh trực tiếp, góp phần giữ nước, giải phóng và thống nhất đất nước. Điều quan tâm hiện nay là phải chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam, trong đó, nội hàm quan trọng nhất là ý thức bảo vệ Tổ quốc, tình yêu Tổ quốc, năng lực bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta phải giữ cho được bản sắc truyền thống, căn cước văn hóa Việt Nam để tự tin hội nhập quốc tế. Với xu thế toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta càng thấy đường lối mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ của Đảng ta nói chung và nói riêng trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc là hết sức đúng đắn và sáng suốt.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương thứ 5 chỉ rõ: “phương hướng chung, đồng thời là nhiệm vụ bao quát của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ những tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo nên trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đjep, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển phục vụ đặc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết Trung ương 5 “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” vừa đáp ứng đúng những đòi hổi bức xúc của cuộc sống vừa là định hướng chiến lược cơ bản cho sự nghiệp xây dựng, củng cố và không ngừng tăng cường nền tảng tinh thần xã hội ta.
2.3. Phương hướng bản sắc văn hóa dân tộc
Tiếp biến văn hóa là một hình thức biến nhiều lợi ích tiềm năng mà giao lưu văn hóa đem lại thành những lợi ích thực tế, song cũng đưa đến những thách thức không nhỏ. Vì vậy, để tạo ra những sản phẩm văn hóa vượt gộp, làm nên những giá trị văn hóa sống mãi với thời gian và khống chế được những bất cập, mặt trái, cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành chức năng về xây dựng và phát triển văn hóa, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chú trọng “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” theo tinh thần Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. Trong đó, tiếp tục xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Hai là, tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Tích cực đấu tranh, bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy; đồng thời, hạn chế hoặc gạt bỏ những hủ tục để tạo dựng đời sống tinh thần lành mạnh trong nhân dân.
Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ thuật quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài. Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại và đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc với tinh thần chủ động để vừa đón nhận cơ hội phát triển vừa vượt qua các thách thức, nhằm giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời, hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam. Đồng thời, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập đa chiều với thế giới hôm nay, bản lĩnh trong tiếp biến, làm giàu văn hóa dân tộc và khắc chế những hệ lụy, mặt trái tới đâu sẽ tạo ra độ khúc xạ văn hóa tới đó. Bản lĩnh càng cao thì độ khúc xạ càng mạnh mẽ và khi ấy các thành tựu văn hóa ra đời và phát triển.
3. Sự cần thiết của việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế
Sức mạnh nội sinh của một nền văn hóa phụ thuộc nhiều vào thành quả của nền văn hóa dân tộc. Nhưng sức mạnh nội sinh của dân tộc không tự nhiên mà có, mà cần quan tâm đầu tư xây dựng, phát triển nền công nghiệp văn hóa nội địa có đủ khả năng phục vụ nhu cầu của người dân trong nước, tạo điều kiện cho việc tiếp cận, sử dụng, thưởng thức văn hóa của người dân được tăng lên. Mặt khác, chúng ta phải tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa Việt để giới thiệu, quảng bá, xuất khẩu ra nước ngoài.
Nếu trước đây dân tộc ta từng có cả nghìn năm bị cưỡng bức văn hóa thì ngày nay chuyện đó sẽ khó có thể xảy ra. Nhưng trong quá trình giao lưu văn hóa hiện nay, sự xâm nhập, thẩm thấu các giá trị văn hóa ngoại lai vào nước ta diễn ra thông qua nhiều hình thức, con đường rất tinh vi, nên chúng ta rất cần có những giải pháp phù hợp để phòng ngừa những tác hại, hệ lụy của những luồng văn hóa lai căng, xấu độc. Muốn giữ được gốc gác cội nguồn dân tộc và bản sắc văn hóa Việt Nam, ngoài trách nhiệm của ngành văn hóa và những người làm công tác văn hóa, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành và cả cộng đồng, xã hội. Vì văn hóa gắn liền với mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi địa phương và gắn liền với các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, do đó, cả hệ thống chính trị phải cùng nêu cao trách nhiệm trong việc tham gia giữ gìn, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của dân tộc.
Như Báo Quân đội nhân dân đã đề cập, vì thiếu sản phẩm văn hóa chất lượng cao nên chúng ta mới phải “nhập siêu” nhiều sản phẩm văn hóa nước ngoài như thế. Vì vậy, để góp phần bảo vệ sức sống của nền văn hóa Việt, chúng ta cần sớm triển khai và hiện thực hóa Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Thực tế cho thấy, việc chú trọng xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa không chỉ góp phần làm gia tăng giá trị cho nền kinh tế quốc dân, mà còn là giải pháp hữu hiệu để không ngừng làm giàu bản sắc văn hóa Việt. Chỉ khi nào đa số người Việt đều yêu thích nhạc Việt, phim Việt, ham mê tiêu dùng sản phẩm văn hóa Việt thì lúc đó chúng ta mới có “sức đề kháng” tốt để phòng ngừa nguy cơ “xâm lăng văn hóa” ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu vào nước ta.
Tô Thị Hòa