07/11/2024 lúc 17:05 (GMT+7)
Breaking News

Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện của Việt Nam

Chặng đường hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam đồng hành với nhiều thời cơ - thách thức, thuận lợi - khó khăn, thành công và hạn chế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã từng bước vượt qua nhiều thách thức, khó khăn, đồng thời nắm bắt, phát huy được nhiều yếu tố thời cơ, thuận lợi để vượt qua khủng hoảng, phát triển và từng bước hội nhập đa dạng, toàn diện với khu vực và thế giới.
Ảnh minh họa - TL

1. Hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan của sự phát triển

Mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu đều tìm cách để tham gia hội nhập quốc tế một cách hiệu quả nhất. Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, có nguồn gốc, bản chất xã hội của lao động và sự phát triển văn minh của quan hệ giữa con người với con người. Trong xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển phải có mối liên kết, quan hệ với nhau. Trong một quốc gia phải có liên kết, quan hệ giữa các cộng đồng, các địa phương. Rộng hơn ở phạm vi thế giới, một quốc gia muốn phát triển phải liên kết, quan hệ với các quốc gia khác. Ngày nay, trong một thế giới hiện đại đang đổi thay nhanh chóng, đặc biệt là sự phát triển của kinh tế thị trường và cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư đòi hỏi các quốc gia phải đẩy mạnh mở rộng thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc tế, nhanh chóng tiếp cận khoa học kỹ thuật hiện đại. Đây chính là những nhân tố chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế - một xu thế đã, đang tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống quan hệ quốc tế và sự phát triển của từng quốc gia trên thế giới.

Phương thức hội nhập quốc tế đa dạng theo tính chất, mức độ của từng lĩnh vực. Xét tổng thể, hội nhập quốc tế có ba phương thức chính là: hội nhập toàn cầu, hội nhập khu vực và hội nhập song phương. Các phương thức hội nhập này được triển khai trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế.

Hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là một nội dung trọng tâm của chính sách đối ngoại và hợp tác quốc tế của Đảng, Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Khái niệm hội nhập quốc tế xuất hiện ở Việt Nam từ khá lâu, ngay từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986) nhận thức và triển khai thực hiện hội nhập quốc tế bắt đầu được Đảng, Nhà nước ta quan tâm chú trọng trong xây dựng, hoạch định và thực thi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm, tư duy về hội nhập quốc tế của Việt Nam từng bước được nhìn nhận đầy đủ, hoàn chỉnh hơn theo từng bước phát triển của thực tiễn đất nước. Thuật ngữ “hội nhập” chính thức được đề cập trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996). Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011), tư duy nhấn mạnh hội nhập kinh tế quốc tế được chuyển sang “hội nhập quốc tế” toàn diện, trên mọi lĩnh vực hợp tác quốc tế của Việt Nam. Với tư duy hội nhập quốc tế theo nghĩa rộng và thực tiễn những năm qua cho thấy, Việt Nam đã, đang hội nhập quốc tế ở nhiều lĩnh vực và mức độ hội nhập ở mỗi lĩnh vực có khác nhau, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là nổi bật nhất.

Theo các văn bản của Đảng, pháp luật của Việt Nam như: Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 20/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 22 về hội nhập quốc tế; Quyết định số 596/QĐ-TTg ngày 23/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế... thì hội nhập quốc tế của Việt Nam gồm: hội nhập trong lĩnh vực kinh tế (hội nhập kinh tế quốc tế); hội nhập trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh; hội nhập trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, dân tộc, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và trên các lĩnh vực khác.

Mục tiêu hội nhập quốc tế được Đảng, Nhà nước ta khẳng định trong nhiều nghị quyết, văn bản, đặc biệt Nghị quyết số 22 về hội nhập quốc tế nhấn mạnh: hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong đường lối, chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế 30 năm qua đã góp phần đem lại cho Việt Nam nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực, nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn trước một thế giới đang thay đổi nhanh chóng và những yêu cầu của sự phát triển bền vững trong nước. Để hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả cần phát huy bài học kinh nghiệm, giải quyết tốt những vấn đề đặt ra và triển khai đồng bộ triệt để hệ thống giải pháp liên quan đến hội nhập quốc tế cả trong nhận thức và thực tiễn hành động.

2. Một số bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế của Việt Nam

Từ thực tiễn xây dựng, triển khai đường lối, chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế, từ những thành tựu, hạn chế của hội nhập quốc tế thời gian qua, có thể chỉ ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

Một là, luôn có tư duy nhận thức về thế giới một cách khách quan, biện chứng, khoa học. Thực tiễn thế giới luôn vận động, thay đổi, do đó tư duy nhận thức phải thay đổi linh hoạt, thậm chí phải dự báo được sự thay đổi đó để có được những chiến lược, sách lược, bước đi hội nhập phù hợp, hiệu quả.

Hai là, quá trình hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực cần xuất phát từ yêu cầu bên trong của đất nước, phù hợp với sự chuẩn bị và mức độ sẵn sàng của các chủ thể trên từng lĩnh vực khi tham gia hội nhập. Tham gia hội nhập không để rơi vào bị động, chạy theo.

Ba là, cần có sự thống nhất về quan điểm, nhận thức trong việc đề ra chủ trương, mục tiêu hội nhập và cách thức hành động. Xây dựng các căn cứ khoa học, pháp lý và thực tiễn về việc hội nhập quốc tế trên từng lĩnh vực và phương thức hội nhập nhằm đảm bảo được tầm nhìn chiến lược dài hạn về mục tiêu theo từng lĩnh vực hội nhập quốc tế.

Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung và các cam kết hội nhập ở từng lĩnh vực, với từng chủ thể hội nhập nói riêng. Việc tuyên truyền cần được thực hiện linh hoạt, chủ động, phù hợp qua nhiều kênh thông tin khác nhau, đồng bộ và phải có tính định hướng cao. Các đối tượng khác nhau (cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, người dân...) cần được cung cấp những thông tin theo những cách phù hợp khác nhau để đảm bảo hiệu quả của công tác tuyên truyền.

Năm là, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi mức độ cam kết tham gia hội nhập ngày càng cao cả về phạm vi và mức độ hội nhập. Vì vậy, phải chủ động xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện khuôn khổ hành lang pháp lý trong nước để đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước, đồng thời hỗ trợ và tận dụng tốt nhất các cơ hội, điều kiện quốc tế mà tiến trình hội nhập quốc tế đem lại.

Sáu là, huy động và củng cố sức mạnh vật chất với huy động và phát huy sức mạnh tinh thần; kết hợp sức mạnh tự thân, nội lực, sức mạnh dân tộc với sự đồng tình, củng cố của bạn bè quốc tế, sức mạnh thời đại để thực hiện việc hội nhập thực chất, hiệu quả. Đặc biệt, cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực tham gia hội nhập cả về chuyên môn, luật pháp, ngoại ngữ, văn hóa.

Bảy là, nắm vững và tận dụng tốt thời cơ, giành thắng lợi trên từng mặt trận hội nhập. Quá trình hội nhập cần đi vững chắc theo từng cấp độ từ nhỏ đến lớn, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu và nâng cấp các khuôn khổ hợp tác một cách bền vững. Thực tế cho thấy, trong quá trình hội nhập của Việt Nam, từ việc gia nhập ASEAN (1995), gia nhập ASEM (1996), APEC (1998), WTO (2002), với hội nhập kinh tế quốc tế… giờ đây Việt Nam đã, đang mở rộng hội nhập trong các lĩnh vực khác từ chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục đến an ninh, quốc phòng, khoa học, công nghệ.

Tám là, ứng xử khôn khéo, linh hoạt giữa hai mặt hợp tác và đấu tranh trong hội nhập quốc tế theo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, mọi chủ trương, hoạt động hội nhập phải kiên trì, kiên định nguyên tắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Đồng thời, phải linh hoạt, mềm dẻo trong đàm phán, giải quyết các vấn đề bất đồng, những nội dung chưa tạo được tiếng nói chung.

Chín là, hội nhập vừa theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, song phải có tính chọn lọc cao. Nghĩa là, bất cứ lĩnh vực nào có lợi cho quốc gia, nhân dân thì cần khai thác triệt để. Tuy nhiên, cần có sự lựa chọn lĩnh vực, mặt hàng, sản phẩm thích hợp với nhu cầu của thị trường thế giới và lợi thế so sánh của Việt Nam để việc hội nhập, hợp tác đạt được lợi ích nhiều nhất cho quốc gia.

Mười là, hội nhập quốc tế phải gắn liền với việc xây dựng một xã hội văn minh, dưới sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và luôn đảm bảo sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng. Trong quá trình hội nhập cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các hình thức, phương thức hội nhập, tạo thành mặt trận hội nhập, hợp tác, toàn diện, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

3. Một số vấn đề đặt ra cho hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới

Thứ nhất, tình hình trong nước, khu vực và thế giới có nhiều thay đổi, diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh thời cơ, thuận lợi, nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Vấn đề này đặt ra cho Việt Nam phải đẩy mạnh tham gia chủ động, tích cực, trách nhiệm và sâu hơn vào quá trình định hình và cải cách các định chế, cơ chế, cấu trúc khu vực và quốc tế để vừa đem lại lợi ích và vị thế của Việt Nam, vừa tạo điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích của các tổ chức, cá nhân trong nước; bảo đảm độc lập, tự chủ và củng cố, duy trì môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.

Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế và quá trình đổi mới trong nước, nhất là đổi mới hoàn thiện thể chế, đặc biệt là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách cần được thực hiện một cách đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy hiệu quả bản sắc văn hóa dân tộc.

Thứ ba, hội nhập quốc tế phải trên cơ sở khai thác và phát huy tối đa các nguồn nội lực. Gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hoàn thiện thể chế, luật pháp cho tương thích với thông lệ quốc tế, đảm bảo lợi ích quốc gia; phát triển và nâng cao toàn diện chất lượng nguồn nhân lực; đẩy nhanh hiện đại hóa kết cấu hạ tầng; nâng cao sức mạnh tổng hợp và phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong các lĩnh vực hội nhập với năng lực cạnh tranh quốc gia; tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong cả nước.

Thứ tư, hội nhập kinh tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế không tách rời việc củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn môi trường sinh thái. Hội nhập trên các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể theo lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.

Thứ năm, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Vì thế, mọi chủ trương, cơ chế, chính sách phải phát huy được tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả tiềm năng của toàn xã hội, các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài vào quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ sáu, cần nắm chắc phương châm hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia.

Thứ bảy, nâng tầm hội nhập quốc tế trên các tầng nấc, cơ chế liên kết theo hướng đẩy mạnh chủ động đóng góp, tiếp cận đa ngành, đa phương, nhất là trong các khuôn khổ đa phương và trong các vấn đề mà Việt Nam quan tâm, có lợi ích như đối tác phát triển, giảm nghèo, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, an ninh hàng hải, bảo vệ môi trường... Đẩy mạnh nỗ lực tạo đột phá trong vận động các đối tác, nhất là các đối tác lớn sớm công nhận quy chế thị trường của Việt Nam trước thời hạn năm 2018 (thời điểm kinh tế nước ta được công nhận là nền kinh tế thị trường theo thỏa thuận gia nhập WTO). Xử lý khéo léo, hiệu quả các tranh chấp, vướng mắc trong kinh tế, thương mại nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích của các địa phương, doanh nghiệp và người lao động.

Thứ tám, khác với các giai đoạn trước, hội nhập quốc tế giai đoạn hiện nay đòi hỏi đổi mới tư duy, chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”. Với mức độ và quy mô hội nhập hiện nay, các mối quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam không đơn thuần là “hội nhập” mà ở tầm “liên kết”.

Thứ chín, nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia đầy đủ, trách nhiệm các hoạt động của cộng đồng khu vực, châu lục và toàn cầu; chủ động đề xuất các sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong cộng đồng khu vực và thế giới, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung vì một thế giới hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và phát triển.

4. Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện của Việt Nam

Để hội nhập quốc tế toàn diện trong giai đoạn mới có hiệu quả cần triển khai thực hiện hệ thống các giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về yêu cầu hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, lĩnh vực để thống nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội nhập quốc tế của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, của toàn dân, doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức trong xã hội.

Hai là, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, đồng bộ trên cơ sở phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng; điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh các chính sách hội nhập quốc tế cho phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước và các cam kết quốc tế.

Ba là, chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia qua việc đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng cho mọi tổ chức, doanh nghiệp, người dân tham gia phát triển sản xuất kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; tạo cơ chế chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.v.v...

Bốn là, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm ảnh hưởng chiến lược quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của Việt Nam, đưa các khuôn khổ quan hệ đã được xác lập đi vào thực chất có chiều sâu, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa Việt Nam với các đối tác một cách bình đẳng. Chủ động trong việc lựa chọn đối tác và xây dựng phương án đàm phán với từng đối tác trên cơ sở cùng có lợi.

Năm là, các bộ, ngành, địa phương cần chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch toàn diện và cụ thể trong việc thực hiện Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong bối cảnh thế giới cũng như trong nước đang có nhiều thay đổi lớn. Tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm quản lý, chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước và chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm. Chú trọng hơn đến công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chủ trương, chính sách hội nhập.

Sáu là, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký thỏa thuận. Xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập trên mọi lĩnh vực theo kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích quốc gia và khả năng của đất nước. Tích cực và trách nhiệm hơn trong việc tham gia các thể chế hội nhập toàn cầu. Chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế thế giới theo hướng công bằng, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi.

Bảy là, đẩy mạnh nâng cao năng lực thực thi hội nhập quốc tế qua việc kiện toàn, củng cố và phát triển bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách, nguồn nhân lực chất lượng cao có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tri thức, kỹ năng hội nhập, nắm vững nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của công tác hội nhập trong giai đoạn mới.

TS.Phạm Thanh Hà

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khu vực I

------------------------------------

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Nxb CTQG, H.2015.
  3. Phạm Bình Minh, Ngoại giao Việt Nam quá trình triển khai đường lối đối ngoại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, H.2015.
  4. Bùi Thanh Sơn (chủ biên), Hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Nxb CTQG, H.2015.
  5. Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên), Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới, Nxb KHXH, H.2011.
  6. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
  7. Nghị quyết số 06-NQ/TW (2016), Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

 

 

...