
Tổng Bí thư Tô Lâm chúc mừng GS Đặng Vũ Minh - Chủ tịch Danh dự Liên hiệp Hội Việt Nam tại buổi lễ gặp mặt trí thức, nhà khoa học (Tháng 12/2024)
Thực trạng về đội ngũ trí thức và nguồn nhân lực KH&CN
Theo Cục Thống kê, đội ngũ trí thức qua số liệu của tổng điều tra dân số năm 2009 và năm 2019, số lượng trí thức cả nước sau 10 năm từ 2009 đến 2019 số lượng trí thức đã tăng 2.723.044 người, trong đó số tốt nghiệp đại học tăng 2.460.414 người; số tốt nghiệp thạc sỹ tăng 247.811 người; số có trình độ tiến sỹ tăng 15.219 người. Số lượng trí thức đang hoạt động trong lĩnh vực KH&CN cũng tăng nhanh.
Về số lượng cán bộ trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (NC&PT), kết quả tổng hợp điều tra của Bộ KH&CN năm 2021 cho biết, cả nước có 187.298 người tham gia các hoạt NC&PT, tăng gần 2.000 người so với 2 năm trước đó. Tỷ trọng các nhà nghiên cứu ngày càng tăng, từ 78,12% năm 2015 lên 83,61% tổng số nhân lực NC&PT năm 2021. Trong khi đó, nhân viên kỹ thuật chỉ chiếm dưới 7% và nhân viên hỗ trợ chiếm dưới 10%. Trong giai đoạn 2015 - 2021, số lượng nhân lực NC&PT của Việt Nam đã tăng đáng kể từ 167.746 lên 187.298 người, tỷ lệ tăng 11,65%, cơ cấu nhân lực NC&PT của Việt Nam đã có sự gia tăng tương đối ổn định, số lượng cán bộ nghiên cứu (những người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên tham gia vào hoạt động NC&PT) chiếm khoảng 80%, trong khi cán bộ kỹ thuật dao động từ 6-7%, còn lại là cán bộ hỗ trợ.
Trình độ, chất lượng nguồn nhân lực KH&CN Việt Nam:
Số cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại học chiếm tỷ lệ cao. Năm 2020, nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng chiếm khoảng 1,5 triệu người, trong đó giáo sư, phó giáo sư khoảng 2.000 người, hơn 14.000 tiến sĩ, hơn 11.000 thạc sĩ. Số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực KHCN hơn 34.000 người, hơn 42.000 cán bộ giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và hàng vạn cán bộ KHCN làm việc trong các ngành, lĩnh vực kinh tế khác.
Về chất lượng, cán bộ nghiên cứu là những người có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên tham gia vào hoạt động NC&PT. Trong những năm qua, số lượng và trình độ của đội ngũ này đã được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại học (tiến sĩ, thạc sĩ) trong tổng số cán bộ nghiên cứu đã tăng từ gần 50% (2015) lên gần 57,6% (2021). Trong đó, tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ cao (tiến sĩ) tăng nhanh từ khoảng 11% lên 15,62%. Kết quả điều tra NC&PT cho thấy, số lượng nhà nghiên cứu trong các tổ chức giáo dục đại học trên 80.000 người chiếm hơn 50% tổng số nhà nghiên cứu trên cả nước. Từ năm 2015 - 2021, trình độ của các nhà nghiên cứu trong khu này được cải thiện đáng kể, số lượng nhà nghiên cứu có trình độ tiến sĩ tăng hơn 90% từ 9.624 lên 18.298 người. Trong khi đó, số nhà nghiên cứu trong các tổ chức NC&PT có xu hướng giảm dần trong những năm qua cả về số lượng và tỷ trọng so với cả nước từ 29.786 (22,73%) xuống còn 25.437 (16,24%) người năm 2021.
Về cán bộ nghiên cứu quy đổi tương đương toàn thời gian, theo số liệu từ điều tra của Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2021), tỷ lệ quy đổi cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian (FTE) của Việt Nam năm 2021 là 75.665 người, tăng 2.674 người so với năm 2019. Bình quân Việt Nam có 7,68 cán bộ nghiên cứu FTE trên 1 vạn dân, hay 1,54 FTE trên 1 nghìn lao động. So sánh trong khu vực Đông Nam Á cho thấy, Việt Nam đứng thứ 3 (sau Thái Lan và Malaysia) về số lượng cán bộ nghiên cứu theo FTE. Nếu so sánh về số cán bộ nghiên cứu trên 1 vạn dân thì Việt Nam đứng thứ 4, sau Singapore (69,2), Malaysia (23,6) và Thái Lan (12,1).
Nguồn nhân lực KH&CN đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước:
Với sự tăng nhanh về số lương, gia tăng về chất lượng, nguồn nhân lực KH&CN đã có những cống hiến sức to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đát nước: Là lực lượng nòng cốt trong việc hoàn thiện hệ thống lý luận, cơ sở khoa học - thực tiễn giúp Đảng và Nhà nước xác định đường lối chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển đất nước; truyền bá, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học, kiến thức và công nghệ sản xuất tiên tiến cho các tầng lớp nhân dân, qua đó góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về KH&CN, nâng cao năng lực sản xuất xã hội; nghiên cứu, ứng dụng, triển khai các quy trình công nghệ mới, các thiết bị, công cụ mới vào sản xuất và đời sống; cải tiến và hệ thống hóa công nghệ truyền thống, nâng cao trình độ công nghệ; mở rộng giao lưu, hợ tác quốc tế, lựa chọn, tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ công nghệ mới của thế giới vào phát triển các ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam…
Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những mặt mạnh, nguồn nhân lực KH&CN Việt Nam cũng bộc lộ những hạn chế nhất định: nhân lực KH&CN mặc dù có tăng về số lượng và phát triển về chất lượng, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; nhận thức của nhân lực KH&CN về vị trí, vai trò, trách nhiệm đối với sự phát triển của đất nước còn chưa cao.
Dù số lượng nhân lực khoa học, công nghệ tăng, trình độ ngày càng được nâng cao, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế: Tỷ lệ nhân lực chất lượng cao còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số và đổi mới sáng tạo.
Ngoài ra, các ngành liên quan đến nghiên cứu, phát triển công nghệ mới còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao. Về năng lực nghiên cứu, sáng tạo của nhân lực KH&CN còn hạn chế, thiếu đội ngũ nhà khoa học đầu ngành và các chuyên gia giỏi.
Năng lực chuyển giao, ứng dụng công nghệ còn yếu, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh toàn cầu. Về năng lực nghiên cứu, sáng tạo của nhân lực KH&CN còn hạn chế, thiếu đội ngũ nhà khoa học đầu ngành và các chuyên gia giỏi; Năng lực chuyển giao, ứng dụng công nghệ còn yếu, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh toàn cầu.
Nhân lực KHCN phân bố không đều, một bộ phận sử dụng nhiều thời gian cho công tác quản lý; tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm yếu, khó hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh và nhóm nghiên cứu liên ngành hoạt động lâu dài, bền vững, thiếu nhân lực KHCN ở các ngành mũi nhọn, có tính chất quyết định như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… Việc phân bố nguồn nhân lực KH&CN cũng còn bất cập, chênh lệch vùng miền, nhân lực KHCN thường tập trung số lượng lớn ở các thành phố lớn, thiếu đội ngũ ở các khu vực xa trung tâm, vùng sâu, vùng xa..

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các nhà khoa học Liên hiệp Hội Việt Nam tại buổi lễ gặp mặt trí thức, nhà khoa học (Tháng 12/2024)
Giải pháp cho phát triển nguồn nhân lực KH &CN
Nghị quyết 57-NQ/TW về “Xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định rõ phát triển đội ngũ trí thức, nhất là nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao là nhiệm vụ then chốt. Để thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW; Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 193/2025/QH15 ngày 19/02/2025 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Trong bối cảnh mới, yêu cầu về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... đòi hỏi chất lượng và hiệu quả nguồn nhân lực KH&CN phải được nâng tầm. Thực tiễn phát triển KH&CN những năm qua cho thấy, nguồn nhân lực KH&CN nước ta vừa thiếu, vừa chưa mạnh về chất lượng, còn phân tán và chưa đồng bộ…Từ thực trang trên xin có một số kiến nghị, giải pháp sau đây”
Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN
Hiện nay, Quốc hội đang xây dựng Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo. Đề nghị Ban Soạn thảo chú trọng bổ sung nội dung về phát triển nguồn nhân lực KH&CN vào Luật; đề nghị Quốc hội và các cơ quan liên quan xem xét bổ sung, sửa đổi nội dung về phát triển nguồn nhân lực KH&CN để tạo môi trường pháp lý thuậ lợi về thu hút, sử dụng, đãi ngộ nhà khoa học, nhất là các chuyên gia giỏi, nhà khoa học đầu ngành, các nhà khoa học trẻ; thực hiện thí điểm cơ chế “khoán trọn gói sản phẩm” trong nghiên cứu KH&CN để tạo động lực phát triển đội ngũ KH&CN.
Nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực KH&CN
Đổi mới chương trình đào tạo sau đại học, đặc biệt các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới. Tăng cường liên kết giữa các cơ sở đào tạo với viện nghiên cứu, doanh nghiệp, bảo đảm người học gắn với thực tiễn. Mở rộng các chương trình bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ trí thức KH&CN đang làm việc trong các viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học. Đẩy mạnh việc đào tạo, phát triển mạnh nhân lực KHCN, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực ngành bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây…
Thu hút và trọng dụng nhân tài KH&CN
Nhà nước cần có chính sách “đặt hàng” cụ thể đối với các nhà khoa học trong nước và kiều bào ở nước ngoài tham gia nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Phát triển Quỹ hỗ trợ tài năng KH&CN, khuyến khích khu vực tư nhân tài trợ phát triển trí thức. Có thang bảng lương đặc thù cho nhà khoa học trong khu vực công lập. Xây dựng cơ chế “chuyên gia đặc biệt”, “giáo sư danh dự” cho các nhà khoa học có công trình, sáng kiến lớn. Gắn đãi ngộ với kết quả, sản phẩm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, tạo điều kiện cho các nhóm nghiên cứu trẻ, đồng thời có cơ chế, chính sách ưu tiên, đột phá, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để thu hút nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài tham gia phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. xây dựng mạng lưới giảng viên, nhà khoa học và chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài, kết nối với mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học quốc tế theo các lĩnh vực khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược.
Phát huy vai trò của Liên hiệp Hội Việt Nam và các tổ chức KH&CN.
Tiếp tục hỗ trợ tạo điều kiện để Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, phát huy vai trò là tổ chức chính trị, xã hội của đội ngũ trí thức KH&CN. Tăng cường hỗ trợ nguồn lực, cơ chế hoạt động cho Liên hiệp Hội Việt Nam và các hội thành viên trở thành nơi hội tụ, phát huy trí tuệ, tiềm năng sáng tạo của đội ngũ trí thức KH&CN.
Đẩy mạnh cơ chế phối hợp giữa các hội KH&CN, các tổ chức KH&CN ngoài công lập với các bộ, ngành, địa phương trong phát triển, sử dụng nguồn nhân lực KH&CN. Chuyển giao một số dịch vụ công cho các hội KH&CN, tổ chức KH&CN ngoài công lập; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức này tham gia đấu thầu các đề tài dự án KH&CN, phổ biến kiến thức, đào tạo, tư vấn, phản biện về KH&CN.
Phát triển nguồn nhân lực KH&CN theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW là nền tảng để Việt Nam phát triển bền vững trong thời kỳ mới. Điều này đòi hỏi sự đồng thuận, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế. Chỉ có sự đổi mới toàn diện, đồng bộ và quyết liệt, chúng ta mới có thể tận dụng tối đa cơ hội, vượt qua thách thức để đưa đất nước tiến lên vị trí vững chắc trong nền khoa học và công nghệ thế giới.
Lê Hồng



