Những năm gần đây, ngành thủy sản Đồng Nai liên tục giữ vững đà tăng trưởng cao, trở thành điểm sáng của khu vực nông – lâm – thủy sản. Sau sắp xếp đơn vị hành chính, tỉnh sở hữu nguồn nước dồi dào với hệ thống sông Đồng Nai, sông Bé cùng hàng loạt hồ thủy lợi lớn tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát triển nuôi trồng thủy sản. Nhu cầu tiêu thụ thủy sản trong và ngoài tỉnh tăng cao, giá cả tương đối ổn định càng khuyến khích người dân đầu tư mạnh vào sản xuất. Sự chuyển dịch sang mô hình nuôi thâm canh, bán thâm canh, áp dụng công nghệ cao và nuôi các loài đặc sản có giá trị đang đưa ngành thủy sản từ “tăng về lượng” sang “tăng về chất”.

Ảnh minh họa - Báo Đồng Nai
Đồng Nai hiện được xem là một trong những địa phương dẫn đầu về phát triển nuôi trồng thủy sản ở khu vực phía Nam. Lợi thế lớn nhất của tỉnh là hệ thống nguồn nước dồi dào, sau khi sắp xếp đơn vị hành chính đã tạo ra quỹ mặt nước rộng lớn để nuôi thủy sản tập trung. Toàn tỉnh hiện có gần 9,9 nghìn ha ao nuôi, hơn 1,5 nghìn bè và khoảng 6 nghìn lồng nuôi cá trên các tuyến sông lớn, trong đó nổi bật là khu vực sông La Ngà. Ngoài ra, hệ thống 20 hồ chứa với diện tích gần 51,5 nghìn ha cũng đang được khai thác hiệu quả, hình thành những vùng nuôi liên hoàn, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất quy mô lớn. Nguồn nước phong phú, kết hợp với khí hậu ôn hòa và kinh nghiệm nuôi trồng lâu năm của người dân, là nền tảng giúp ngành thủy sản tỉnh này duy trì được nhịp tăng trưởng ổn định. Sản lượng thủy sản của Đồng Nai duy trì ở mức cao, ước đạt hơn 82,5 nghìn tấn mỗi năm. Trong cơ cấu sản lượng, cá nuôi chiếm ưu thế với gần 90%, còn lại là tôm, cua và các loài thủy sản đặc sản. Diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh chiếm tới hai phần ba tổng diện tích, cho thấy người dân đã chuyển dịch từ mô hình nuôi quảng canh truyền thống sang phương thức sản xuất hiện đại, chú trọng năng suất và chất lượng. Các loài chủ lực như cá rô đồng, cá diêu hồng, rô phi, cá lăng, tôm thẻ chân trắng không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh mà còn được cung ứng ra nhiều thị trường ngoài tỉnh, góp phần tạo nguồn thu ổn định cho nông hộ.
Hiệu quả kinh tế từ nuôi thủy sản cũng đang ở mức khả quan. Giá các loại cá nước ngọt như diêu hồng, cá rô, cá chép, cá lăng nhiều tháng liền duy trì ổn định ở mức cao, giúp người nuôi có lợi nhuận tốt và yên tâm tái đầu tư. Tại các vùng nuôi tôm, cua nước lợ, thu nhập của người dân càng tăng rõ rệt vào các dịp cao điểm như lễ, Tết khi nhu cầu tiêu thụ tăng gấp hai đến ba lần so với ngày thường. Đây cũng là thời điểm nhiều cơ sở nuôi chủ động tăng sản lượng thả giống, chuẩn bị cho vụ thu hoạch Tết Nguyên đán với kỳ vọng “trúng mùa, trúng giá”. Bên cạnh đó, cơ cấu nuôi cũng đang có sự dịch chuyển theo hướng gia tăng tỷ lệ các loài đặc sản có giá trị kinh tế cao như cá lăng vàng, cá deo, cá chạch, cá chình, tạo ra những sản phẩm đặc thù có thể xây dựng thương hiệu địa phương. Những mô hình nuôi tôm công nghệ cao với ao lót bạt, hệ thống xử lý nước tuần hoàn và kiểm soát chất thải đã được nhiều hợp tác xã triển khai, cho năng suất cao hơn hẳn phương thức nuôi truyền thống, đồng thời giảm rủi ro dịch bệnh. Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp thủy sản Thành Công ở xã Phước An là một trong những điển hình, đã mạnh dạn mở rộng diện tích nuôi tôm công nghệ cao lên hơn 30 ha và được địa phương hỗ trợ đầu tư hạ tầng giao thông, điện sản xuất. Thành công của mô hình này đang được khuyến khích nhân rộng ở nhiều xã, từng bước hình thành các vùng nuôi thủy sản an toàn, bền vững. Hiện Đồng Nai có 27 doanh nghiệp trong nước, 18 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 8 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực thủy sản. Sự tham gia của khu vực doanh nghiệp giúp ngành thủy sản tiếp cận tốt hơn với công nghệ, vốn và thị trường, đồng thời từng bước hình thành chuỗi giá trị khép kín. Một số địa phương như xã Phú Hòa còn định hướng gắn nuôi thủy sản với phát triển du lịch sinh thái và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm đặc sản, tiêu biểu là cá lăng sông La Ngà.
Dù sở hữu nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên và nguồn lực, ngành thủy sản Đồng Nai vẫn đối diện với không ít thách thức. Ô nhiễm nguồn nước từ sinh hoạt, công nghiệp hay nông nghiệp thượng nguồn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nước đầu vào cho ao nuôi. Biến đổi khí hậu với những đợt nắng nóng kéo dài, mưa lũ thất thường cũng gây biến động môi trường ao nuôi, làm tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Với các mô hình thâm canh, đặc biệt là nuôi tôm nước lợ, nếu không kiểm soát tốt dịch bệnh và xử lý chất thải triệt để, rủi ro thiệt hại có thể rất lớn, ảnh hưởng cả một vụ nuôi. Dù thị trường Tết Nguyên đán luôn được kỳ vọng là “mùa vàng” cho người nuôi, nguy cơ cung vượt cầu hoặc sản phẩm không bảo đảm chất lượng vẫn hiện hữu. Khi đó, giá cá, tôm có thể sụt giảm, gây thiệt hại kinh tế cho người nuôi. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh từ các tỉnh nuôi thủy sản lớn khác hoặc từ nguồn thủy sản nhập khẩu khiến việc giữ vững thị phần trở nên khó khăn hơn, đòi hỏi sản phẩm của Đồng Nai phải có lợi thế về chất lượng, an toàn thực phẩm và thương hiệu. Nhiều vùng nuôi xa trung tâm còn hạn chế về giao thông, điện và hệ thống cấp thoát nước, gây khó khăn cho việc mở rộng mô hình công nghệ cao. Các chương trình hỗ trợ giống, xử lý môi trường, hay tập huấn kỹ thuật cho nông dân vẫn cần được triển khai rộng và thường xuyên hơn để bảo đảm mọi vùng nuôi đều được tiếp cận. Hiện nhiều hộ nuôi vẫn sản xuất đơn lẻ, phụ thuộc thương lái nên dễ bị ép giá. Việc xây dựng thương hiệu cho những sản phẩm đặc sản như cá lăng sông La Ngà còn chậm, chưa tạo được lợi thế cạnh tranh nổi bật. Liên kết giữa người nuôi – doanh nghiệp – hợp tác xã mới chỉ hình thành ở một số mô hình, chưa đủ mạnh để bao tiêu đầu ra, bình ổn giá và bảo đảm chất lượng đồng bộ.
Để khai thác tối đa tiềm năng thủy sản và biến lĩnh vực này thành động lực tăng trưởng kinh tế nông thôn, Đồng Nai cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết là phát triển và nhân rộng các mô hình nuôi tiên tiến, ứng dụng công nghệ cao như ao nuôi lót bạt, hệ thống xử lý nước tuần hoàn, quản lý chất thải và phòng dịch bệnh nghiêm ngặt. Đồng thời, cần ưu tiên nghiên cứu, lai tạo các giống mới và giống đặc sản có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện môi trường địa phương nhằm nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm. Cùng với đó, quản lý môi trường và đảm bảo an toàn sinh học phải được xem là nhiệm vụ trọng tâm. Cơ quan chức năng cần tăng cường giám sát chất lượng nước, hướng dẫn người dân xử lý chất thải đúng quy trình, đồng thời ban hành các quy định và bộ tiêu chuẩn kỹ thuật về nuôi thủy sản an toàn. Việc tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn kỹ thuật, chia sẻ kinh nghiệm phòng trị dịch bệnh cũng giúp người nuôi nâng cao kiến thức, giảm rủi ro sản xuất. Địa phương cần hoàn thiện hệ thống giao thông, điện, cấp thoát nước phục vụ sản xuất; mở rộng hỗ trợ vốn, tín dụng ưu đãi, bảo hiểm thủy sản để giảm áp lực tài chính cho nông hộ. Song song, chính sách khuyến khích doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư vào chế biến, tiêu thụ và xây dựng chuỗi liên kết cần được đẩy mạnh nhằm hình thành hệ sinh thái sản xuất hiện đại.
Một định hướng không kém phần quan trọng là phát triển thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm. Đồng Nai có thể đẩy mạnh xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm đặc sản như cá lăng, cá chẽm, đa dạng hóa sản phẩm chế biến, nâng cao chất lượng đóng gói, bảo đảm truy xuất nguồn gốc. Việc mở rộng thị trường tiêu thụ không chỉ trong tỉnh, trong nước mà cả xuất khẩu sẽ giúp ngành thủy sản tăng tính cạnh tranh, tận dụng tốt các mùa cao điểm như dịp lễ, Tết. Cần thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị, tăng cường hợp tác giữa người nuôi, hợp tác xã và doanh nghiệp để bảo đảm đầu ra ổn định, chia sẻ rủi ro và áp dụng kỹ thuật đồng bộ. Các hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao cần được nhân rộng, giúp cơ cấu lại sản xuất theo hướng chuyên nghiệp, giảm tình trạng sản xuất manh mún, nâng cao vị thế thủy sản Đồng Nai trên thị trường.
Lê Hữu Thành



