24/11/2024 lúc 12:37 (GMT+7)
Breaking News

Định hướng tham gia của Việt Nam trong ASEAN đến năm 2030

Tháng 9-2023, tại Hội nghị cấp cao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần thứ 43, được tổ chức ở Thủ đô Gia-các-ta (In-đô-nê-xi-a), lãnh đạo các quốc gia thành viên ASEAN đã thảo luận và ghi nhận Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN đến năm 2045, xác lập khuôn khổ chiến lược cho sự phát triển của Hiệp hội đến giữa thế kỷ XXI. Ở trong nước, ngày 8-8-2023, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 59-KL/TW, “Về định hướng tham gia ASEAN của Việt Nam đến năm 2030”.

Những nét mới và nổi bật về chủ trương tham gia ASEAN của Việt Nam

Kết luận số 59-KL/TW, ngày 8-8-2023, “Về định hướng tham gia ASEAN đến năm 2030” là văn bản chỉ đạo toàn diện đầu tiên của Bộ Chính trị về định hướng nâng cao hiệu quả và phát huy vai trò của Việt Nam trong ASEAN kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995. Kết luận số 59-KL/TW được ban hành nhằm thống nhất nhận thức về tầm quan trọng của ASEAN, bảo đảm sự tham gia của Việt Nam trong ASEAN mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, địa phương và doanh nghiệp(1). 

 

Kết luận khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ASEAN là cơ chế hợp tác đa phương gắn bó trực tiếp, quan trọng hàng đầu đối với Việt Nam. Thực tế đã chứng minh việc tham gia ASEAN có ý nghĩa quan trọng, góp phần đem lại môi trường hòa bình, ổn định để Việt Nam tranh thủ được các nguồn lực phục vụ phát triển đất nước và nâng cao uy tín quốc tế, vai trò và vị thế chiến lược trong quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chủ chốt. Kể từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam luôn coi trọng và tích cực củng cố đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN thông qua thúc đẩy điểm tương đồng, đề cao đối thoại và hợp tác, chủ động kiểm soát và đóng góp phù hợp để xử lý khác biệt. Cùng với các nước thành viên khác, Việt Nam chú trọng thúc đẩy lập trường, quan điểm chung của ASEAN về các vấn đề quốc tế và khu vực cũng như những sáng kiến hợp tác mới, đồng thời nỗ lực phát triển quan hệ cân bằng và ngày càng sâu rộng, thực chất với các đối tác, nhất là các nước lớn. Việt Nam chia sẻ lợi ích với các nước Đông Nam Á khác trong việc kiên trì xây dựng ASEAN trở thành cơ chế trung tâm trong cấu trúc khu vực đang định hình, nâng cao hiệu quả hoạt động và sự bổ trợ lẫn nhau giữa các cơ chế, diễn đàn do ASEAN khởi xướng và dẫn dắt, qua đó thúc đẩy định hình cấu trúc khu vực trong đó ASEAN giữ vai trò trung tâm.

Kết luận lần đầu tiên đưa ra cách tiếp cận toàn hệ thống chính trị của Việt Nam trong tham gia ASEAN. Theo đó, việc thúc đẩy và nâng cao hiệu quả tham gia ASEAN được xem là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý thống nhất của Nhà nước; sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; sự tham gia tích cực của các ban, bộ, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức quần chúng, người dân và doanh nghiệp Việt Nam. Cách tiếp cận này có sự tương thích với cách tiếp cận toàn Cộng đồng của ASEAN trong thúc đẩy liên kết nội khối liên lĩnh vực và đa cấp độ theo Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN đến năm 2045, cũng như trong gia tăng kết nối thông qua việc phối kết hợp các sáng kiến kết nối chủ đạo trong khu vực cùng các khuôn khổ hợp tác tiểu khu vực và cơ chế đa phương khác.

Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã đề ra quan điểm chỉ đạo trong định hướng chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên(2). Định hướng này đã được cụ thể hóa trong Kết luận số 59-KL/TW về sự tham gia của Việt Nam trên ba trụ cột Cộng đồng ASEAN, trong đó hợp tác chính trị - an ninh là trọng yếu, thường xuyên, hợp tác kinh tế là trung tâm, hợp tác văn hóa - xã hội là nền tảng. Vận dụng trong trường hợp ASEAN, lần đầu tiên một số phương châm, quan điểm chỉ đạo lớn của Đảng về đối ngoại và trường phái “ngoại giao cây tre” Việt Nam được cụ thể hóa. Nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc được thực hiện một cách hài hòa với lợi ích chung của Cộng đồng ASEAN. Kết luận số 59-KL/TW cũng nhấn mạnh định hướng nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt và hòa giải trong ASEAN phù hợp với điều kiện cụ thể, thế và lực mới của Việt Nam, thể hiện tâm thế mới của một Việt Nam tự tin và trách nhiệm hơn; triển khai Chỉ thị số 25/CT-TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương của Việt Nam đến năm 2030”, trong đó ASEAN được xác định là một trọng tâm ưu tiên.

Thực trạng và triển vọng của ASEAN

Sau gần sáu thập niên, nhất là từ khi hoàn thành mở rộng thành viên bao gồm 10 nước Đông Nam Á vào năm 1999, thông qua Hiến chương năm 2007 và trở thành Cộng đồng từ năm 2015, ASEAN đã không ngừng lớn mạnh. Hợp tác, liên kết nội khối và với các đối tác được củng cố, mở rộng, làm sâu sắc hơn, trở thành một trường hợp tiêu biểu cho sức sống dẻo dai của một tổ chức khu vực. Trong những năm gần đây, mặc dù thế giới và nhiều khu vực trải qua những biến động lớn, nội bộ gặp không ít khó khăn, ASEAN vẫn đạt được những thành tựu quan trọng hướng tới hiện thực hóa Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN đến năm 2025.

Về chính trị - an ninh, ASEAN đã duy trì được môi trường khu vực hòa bình, ổn định thuận lợi để phát triển Cộng đồng, không ngừng nâng cao vị thế và uy tín của Hiệp hội, trong khi nhiều quốc gia và khu vực khác trên thế giới phải trải qua tình trạng bất ổn, thậm chí xung đột, chiến tranh. Đây được xem là thành tựu lớn nhất của ASEAN trong bối cảnh nhiều biến động. Mặc dù đứng trước nhiều thách thức và lực kéo ly tâm, về cơ bản ASEAN vẫn duy trì được đoàn kết, thống nhất, sự tin cậy, gắn kết giữa các nước thành viên và chuẩn bị kết nạp thêm thành viên mới(3). ASEAN đã thể hiện vai trò quan trọng trong ngăn ngừa và quản lý các tranh chấp, xung đột, củng cố và lập trường chung trong vấn đề Biển Đông một cách nhất quán trong các văn kiện của ASEAN cũng như giữa ASEAN và đối tác. Qua đó, ASEAN tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm ở khu vực và là nhân tố quan trọng trong chính sách khu vực của các đối tác, nhất là các nước lớn. 

Về kinh tế, ASEAN đã đạt được những bước tiến quan trọng hướng tới mục tiêu tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, nâng cao khả năng cạnh tranh, phát triển đồng đều, thu hẹp khoảng cách phát triển và kết nối với nền kinh tế toàn cầu. ASEAN đã kịp thời nắm bắt và thích ứng với các xu thế mới của kinh tế thế giới, như sự dịch chuyển các chuỗi cung ứng, ứng dụng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử. Hội nhập kinh tế nội khối tiếp tục được đẩy mạnh với việc nâng cấp Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). Vai trò trung tâm của ASEAN trong mạng lưới hợp tác kinh tế ở khu vực được củng cố thông qua đàm phán nâng cấp một loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác(4) và nỗ lực thực thi hiệu quả Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Hiện nay, ASEAN là nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khoảng 3.100 tỷ USD và thị trường 680 triệu dân với mức độ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu sắc(5). 

Về văn hóa - xã hội, hợp tác văn hóa - xã hội ngày càng đi vào những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân. ASEAN chú trọng thúc đẩy giải quyết các vấn đề xã hội cố hữu cùng những vấn đề mới nổi của Cộng đồng, bao gồm giáo dục, y tế, an sinh xã hội, bình đẳng giới, xóa đói, giảm nghèo, lao động di cư, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh lương thực... ASEAN đã thiết lập nhiều cơ chế và khuôn khổ hợp tác, chú trọng hài hòa hóa các quy định và tiêu chuẩn chung, giúp nâng cao năng lực cho các nước thành viên trong thực hiện các chính sách thúc đẩy bình đẳng và công bằng xã hội, cải thiện cuộc sống của người dân, phát triển bền vững, qua đó góp phần nâng cao ý thức về cộng đồng và bản sắc chung ASEAN. Trong giai đoạn từ 1990 - 2022, tỷ lệ nghèo trung bình tại các quốc gia thành viên ASEAN đã giảm đáng kể từ 47% xuống còn khoảng 10%(6). Mức độ nghèo đói cùng cực ở các quốc gia thành viên ASEAN đã giảm xuống dưới 5% vào năm 2020, một số quốc gia (Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái Lan) thậm chí còn giảm xuống 0%(7). Tuổi thọ trung bình của người dân ASEAN tăng 11 năm trong giai đoạn từ 1980 - 2022. Tính đến năm 2022, tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành ở các quốc gia ASEAN đạt 95%. Tỷ lệ nhập học giáo dục tiểu học tại 8/10 quốc gia thành viên đạt 90%(8).

Về quan hệ đối ngoại, ASEAN đã mở rộng và tăng cường mạng lưới quan hệ đối tác, hợp tác hiệu quả với nhiều nước cũng như tổ chức quan trọng trên thế giới, thu hút được sự tham gia của các đối tác vào hợp tác khu vực thông qua các khuôn khổ do ASEAN khởi xướng và giữ vai trò chủ đạo, như Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), ASEAN+3, ASEAN+1. Đến nay, ASEAN đã thiết lập quan hệ đối tác ở các cấp độ khác nhau với 25 nước (11 đối tác đối thoại đầy đủ, 8 đối tác đối thoại theo lĩnh vực, 6 đối tác phát triển) và 11 tổ chức quốc tế, bao gồm tất cả nước lớn, các nước chủ chốt tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Liên minh châu Âu (EU); 96 quốc gia cử đại sứ tại ASEAN, 12 nước thiết lập phái đoàn đại diện riêng tại ASEAN và 55 Ủy ban ASEAN tại nước thứ ba hoặc tổ chức quốc tế đã được thiết lập. Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) trở thành chuẩn mực quan trọng điều phối các hoạt động của ASEAN trong quan hệ với các đối tác và được công nhận rộng rãi trong quan hệ quốc tế nói chung tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Hiện nay, đã có 51 nước tham gia TAC. Điều này khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của ASEAN trong việc thúc đẩy hợp tác vì an ninh và phát triển, đồng thời thể hiện sự công nhận và cam kết của các đối tác, nhất là các nước lớn, đối với hòa bình và ổn định ở khu vực. 

Mặc dù đạt được những thành tựu quan trọng, ASEAN cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức cả bên trong và bên ngoài, ảnh hưởng đến mục tiêu, giá trị cốt lõi là sự đoàn kết, thống nhất, vai trò trung tâm và hiệu quả hợp tác của Cộng đồng. Ở bên trong, tiến trình liên kết nội khối và hợp tác với bên ngoài cũng như hình ảnh, uy tín và vai trò trung tâm của Hiệp hội, nhất là khi việc triển khai Đồng thuận 5 điểm của ASEAN chưa đạt kết quả, tiếp tục là thách thức lớn. Bên cạnh đó, hạn chế về bộ máy hoạt động và năng lực thể chế là thách thức nội tại, cố hữu, đã và đang tác động tới hiệu quả hợp tác của ASEAN. Kể từ khi Hiến chương ASEAN có hiệu lực vào năm 2008, bộ máy ASEAN đi vào nền nếp hơn, song vẫn chưa hiệu quả trong tối ưu hóa nguồn lực, phối hợp thực thi các thỏa thuận và triển khai hoạt động hợp tác có tính liên ngành, liên trụ cột. ASEAN đã nhiều lần thảo luận về biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực thể chế, tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều khác biệt quan điểm giữa các nước thành viên. Ở bên ngoài, môi trường địa - chiến lược và địa - chính trị bất ổn, cuộc xung đột tại U-crai-na và khu vực Trung Đông kéo dài, các “điểm nóng” ở eo biển Đài Loan (Trung Quốc), Biển Đông, bán đảo Triều Tiên tiềm ẩn nguy cơ bùng phát và cạnh tranh, mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa các nước lớn, vốn là những đối tác quan trọng của ASEAN, đang đặt ra thách thức không nhỏ, nhất là đối với vai trò trung tâm của ASEAN. Trong đó, cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc, mâu thuẫn và đối đầu Mỹ - Nga ngày càng đặt ASEAN và các quốc gia thành viên trước sức ép chọn bên, khiến ASEAN gặp không ít khó khăn trong việc đạt đồng thuận, nhất là vấn đề liên quan tới các nước lớn.

Với đặc điểm, tính chất, nguyên tắc hoạt động của ASEAN, với những kết quả và hạn chế trong triển khai Tầm nhìn ASEAN đến năm 2025 và các thành tố chính của Tầm nhìn ASEAN đến đến năm 2045 đã được ASEAN xây dựng đến nay, có thể dự báo triển vọng Cộng đồng ASEAN đến năm 2030 sẽ là kết quả tiệm tiến của Cộng đồng ASEAN hiện nay với mức độ hợp tác, liên kết sâu rộng hơn cả về chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội, nhưng không trở thành liên minh hay tổ chức “siêu quốc gia” (như EU). ASEAN được dự báo sẽ tiếp tục là nhân tố quan trọng thúc đẩy đối thoại, hợp tác, có khả năng cân bằng, điều hòa lợi ích các nước lớn và vai trò không thể thiếu đối với hòa bình và phát triển của khu vực, được các nước lớn coi trọng và tranh thủ. Tuy nhiên, về cơ bản ASEAN vẫn là một tập hợp thống nhất trong đa dạng của các nước có thể chế chính trị và trình độ phát triển khác nhau, một tổ chức quốc tế liên chính phủ, trong đó các nước thành viên bình đẳng về chủ quyền và ra quyết định bằng đồng thuận, khó có thể vượt qua hạn chế cố hữu về hiệu quả hợp tác cũng như về bộ máy, thể chế, trừ trường hợp xuất hiện tình huống khủng hoảng đủ lớn buộc ASEAN có điều chỉnh căn bản.

Cộng đồng ASEAN đến năm 2045 về cơ bản sẽ kế thừa và tiếp nối kết quả của Cộng đồng ASEAN đến năm 2025, tiếp tục tăng cường đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm, đẩy mạnh hợp tác và liên kết nội khối, đồng thời nâng cao khả năng tự cường và thích ứng trước cơ hội và thách thức đặt ra, trong đó có các vấn đề, xu hướng mới đang nổi lên, như chuyển đổi số, phát triển xanh, ứng phó với dịch bệnh, biến đổi khí hậu, trí tuệ nhân tạo... 

Về chính trị - an ninh, ASEAN sẽ thúc đẩy một Cộng đồng hòa bình, ổn định và an ninh; đề cao tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương ASEAN và luật pháp quốc tế; ứng phó kịp thời và hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực; tăng cường năng lực dẫn dắt, điều phối tại các cơ chế, diễn đàn do ASEAN khởi xướng; tiếp tục làm sâu sắc quan hệ với các đối tác, mở rộng hợp tác với các đối tác tiềm năng. 

Về kinh tế, ASEAN sẽ thúc đẩy hội nhập kinh tế ASEAN theo hướng xanh, bao trùm và bền vững; củng cố năng lực tự cường và khả năng chống chịu của các nền kinh tế; tăng cường liên kết, kết nối kinh tế nội khối và với đối tác bên ngoài; thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, hướng đến một ASEAN số hóa trên nhiều lĩnh vực; thu hẹp khoảng cách phát triển, tăng cường kết nối, phát triển tiểu vùng trong ASEAN; thúc đẩy ASEAN trở thành trung tâm trong chuỗi cung ứng toàn cầu và các liên kết kinh tế quốc tế. 

Về văn hóa - xã hội, ASEAN sẽ thúc đẩy Cộng đồng ASEAN vì người dân, lấy người dân làm trung tâm, hướng đến sự bao trùm, bền vững và tự cường; bảo đảm các quyền cơ bản của con người, cũng như bình đẳng và quyền lợi của các nhóm yếu thế, nhóm dễ tổn thương trong xã hội; tăng cường vận dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong ứng phó, dự báo và nâng cao khả năng chống chịu với những tình huống khẩn cấp, như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai; thúc đẩy sự tham gia của mọi thành phần xã hội, nhất là phụ nữ và giới trẻ.

Một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong thời gian tới

Sau gần 30 năm tham gia ASEAN, từ những bước đầu làm quen, sự tham gia của Việt Nam đã ngày càng sâu rộng hơn trên tất cả lĩnh vực hợp tác, trở thành thành viên “chủ động, tích cực và có trách nhiệm” của Hiệp hội và Cộng đồng. Trong trụ cột chính trị - an ninh, Việt Nam thường xuyên đề cao và đóng góp có trách nhiệm vào việc duy trì đoàn kết, thống nhất của ASEAN, khéo léo dung hòa và xử lý khác biệt nảy sinh giữa các nước. Việt Nam tích cực cùng các nước thúc đẩy cách tiếp cận cân bằng, khách quan của ASEAN trong các vấn đề khu vực, quốc tế, nỗ lực xây dựng lập trường và tiếng nói chung của ASEAN đối với những vấn đề ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh khu vực, nhất là bảo đảm nội dung vấn đề Biển Đông được duy trì thảo luận thường xuyên, sâu rộng tại các cơ chế, diễn đàn và phản ánh phù hợp trong các văn kiện của ASEAN. Việt Nam cũng đề cao các cơ chế, diễn đàn của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình, yêu cầu các nước lớn tôn trọng vai trò trung tâm cũng như quy trình, thủ tục khi tham gia các cơ chế, diễn đàn này; đồng thời, thúc đẩy ASEAN thể hiện quan điểm chung đối với sáng kiến của các nước lớn liên quan tới cấu trúc khu vực, trong đó có việc thông qua Tài liệu về Tầm nhìn của ASEAN về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (AOIP).

Việt Nam kiên trì thúc đẩy đối thoại và các biện pháp xây dựng lòng tin để quản lý, xử lý những khác biệt, tranh chấp, tích cực tham gia ngày càng sâu rộng hợp tác quốc phòng - an ninh trong khuôn khổ các cơ chế, như Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, ADMM, ADMM+ và ARF, trong đó có các hoạt động diễn tập thực địa, thực binh trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống, như chống khủng bố, phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, an ninh biển. Việt Nam cũng tích cực thúc đẩy việc chia sẻ và đề cao các quy tắc, chuẩn mực ứng xử của ASEAN với các đối tác thông qua thực hiện và phổ biến các công cụ và thỏa thuận của ASEAN, như TAC, Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).

Trong trụ cột kinh tế, Việt Nam tích cực tham gia tiến trình hợp tác và liên kết của ASEAN trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính, tiền tệ; là một trong hai nước có tỷ lệ thực hiện cao nhất các biện pháp ưu tiên trong Kế hoạch Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015 (với tỷ lệ 95,5%, đứng thứ hai sau Xin-ga-po) và đang triển khai nghiêm túc các cam kết theo Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025. Việt Nam đã đảm nhiệm thành công các nhiệm vụ theo quy định luân phiên hoặc do Việt Nam chủ động đề xuất, như điều phối hợp tác kinh tế ASEAN - EU, chủ trì đàm phán dịch vụ trong Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản, chủ trì nhóm đầu tư trong đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Đặc biệt trong năm Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã để lại dấu ấn trong việc dẫn dắt, thúc đẩy các nước giải quyết những vấn đề tồn đọng để kết thúc đàm phán và đi đến ký kết RCEP. Việt Nam cũng đề xuất và thúc đẩy nhiều sáng kiến khác nhằm khắc phục hậu quả đại dịch COVID-19 và thúc đẩy liên kết, hội nhập kinh tế ASEAN, trong đó có Kế hoạch hành động Hà Nội về tăng cường hợp tác kinh tế và kết nối chuỗi cung ứng ASEAN và Biên bản ghi nhớ về các biện pháp phi thuế quan đối với hàng hóa không thiết yếu của ASEAN để ứng phó với đại dịch COVID-19. 

Trong trụ cột văn hóa - xã hội, Việt Nam đã tham gia triển khai hiệu quả các chương trình hợp tác và đưa ra nhiều sáng kiến thiết thực, đồng thời tích cực lồng ghép các nội dung hợp tác của Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN vào chương trình mục tiêu quốc gia và chiến lược phát triển của Việt Nam, qua đó giúp tiết kiệm thời gian, nguồn lực, bảo đảm việc thực hiện nhanh chóng, đồng bộ và toàn diện. Việt Nam đã đảm nhiệm thành công các trọng trách, nghĩa vụ thành viên, chủ trì các hội nghị, tham gia thảo luận, đề xuất sáng kiến góp phần thúc đẩy hợp tác ASEAN trên nhiều lĩnh vực văn hóa - xã hội, như lao động, hợp tác thanh niên, phụ nữ và trẻ em... Đặc biệt, trong năm Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã thể hiện vai trò dẫn dắt, đưa ra nhiều sáng kiến để ASEAN ứng phó kịp thời, hiệu quả với đại dịch COVID-19, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ các nhóm yếu thế và thúc đẩy phục hồi trong và sau đại dịch COVID-19.

Về quan hệ đối ngoại, Việt Nam đã đóng góp tích cực, hiệu quả, trong một số trường hợp đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt thúc đẩy quan hệ với các đối tác đối thoại của ASEAN, góp phần bảo đảm vai trò trung tâm, nâng cao vị thế quốc tế của ASEAN. Đáng chú ý, trong nhiệm kỳ đảm nhận trọng trách kép là Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2020 - 2021, Việt Nam đã khéo lồng ghép, thúc đẩy sự hợp tác giữa hai cơ chế, tăng cường tiếng nói của ASEAN trong các nỗ lực toàn cầu về duy trì hòa bình, an ninh, bình đẳng giới, tăng cường vai trò của phụ nữ vì hòa bình và an ninh, qua đó nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của ASEAN cũng như vai trò của Việt Nam trong ASEAN và Liên hợp quốc.

Triển khai Kết luận số 59-KL/TW của Bộ Chính trị, trên cơ sở thực trạng và triển vọng phát triển của ASEAN đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đồng thời từ thực tiễn tham gia ASEAN trong gần ba thập niên qua, việc tham gia ASEAN của Việt Nam trong thời gian tới cần ưu tiên một số vấn đề sau:

Một là, đẩy mạnh hơn nữa tuyên truyền, nâng cao nhận thức về ASEAN, khẳng định coi trọng giá trị nhiều mặt của ASEAN trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, nhấn mạnh hơn tính chất chiến lược của ASEAN đối với Việt Nam, đồng thời khắc phục cả hai trạng thái tâm lý hoặc quá kỳ vọng hoặc chưa nhận thức đủ về tầm quan trọng và đúng về vai trò, vị trí của ASEAN. 

Hai là, kết hợp hài hòa giữa tư duy quốc gia - dân tộc và tư duy Cộng đồng ASEAN, giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích chung của Cộng đồng ASEAN. Mỗi quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam, đều là một phần cấu thành của Cộng đồng. Do đó, trong khi bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam cần đặt lợi ích của mình trong tổng thể, hài hòa với lợi ích chung của Cộng đồng và tính tới lợi ích chính đáng của các thành viên khác. 

Ba là, đóng góp củng cố đoàn kết và vai trò trung tâm của ASEAN trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược nước lớn ngày càng gay gắt, những tác động có thể có khi Đông Ti-mo trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN.

Bốn là, cụ thể hóa vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong tham gia ASEAN, trong đó cần xác định những lĩnh vực, vấn đề cụ thể Việt Nam có thể và cần đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hay hòa giải, cũng như cách thức triển khai. 

Năm là, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp và người dân tận dụng nhiều hơn cơ hội và lợi ích từ ASEAN và thông qua ASEAN để phát triển phù hợp với cơ đồ, tiềm lực và vị thế mới của Việt Nam.

Sáu là, nâng cao hiệu quả tham gia hợp tác ASEAN trên tất cả trụ cột của các bộ, ngành trong bối cảnh hội nhập ngày càng toàn diện, sâu rộng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ, chuyên gia về hợp tác ASEAN; tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành, nhất là đối với các hoạt động do Việt Nam chủ trì; củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Thư ký ASEAN quốc gia và Phái đoàn Việt Nam tại ASEAN đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tóm lại, sự tham gia ngày càng chủ động, tích cực và trách nhiệm của Việt Nam đã đóng góp không nhỏ vào công việc chung của Cộng đồng cũng như sự lớn mạnh và thành công của ASEAN ngày nay, đồng thời góp phần quan trọng vào việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước, tranh thủ thêm nguồn lực, mở rộng không gian phát triển hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nâng cao vai trò và vị thế chiến lược của Việt Nam trong quan hệ với các nước, nhất là các đối tác chủ chốt. Từ nay đến năm 2030 và xa hơn, phát huy những thành tựu đã đạt được với cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế mới của đất nước, Việt Nam cần tham gia với tinh thần mạnh dạn, chủ động, tích cực, hiệu quả hơn để đóng góp nhiều hơn vào công việc chung của Cộng đồng, cũng như phục vụ tốt hơn lợi ích quốc gia - dân tộc theo tư duy mới và trong bối cảnh mới.

ĐẶNG CẨM TÚ - TRỊNH MINH MẠNH
Học viện Ngoại giao - Bộ Ngoại giao

 

...