Động lực phát triển mới cho vùng biên
Theo định hướng, Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai sẽ trở thành trung tâm công nghiệp, đô thị, thương mại và dịch vụ hiện đại, đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Quy hoạch lần này không chỉ hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững, mà còn nhấn mạnh nâng cao đời sống người dân vùng biên giới, kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác hợp lý tài nguyên, đồng thời bảo đảm quốc phòng – an ninh, chủ quyền quốc gia.
Tổng diện tích khu kinh tế khoảng 15.930ha, dân số dự kiến đạt 86.000 người vào năm 2030 và khoảng 120.000 người vào năm 2045. Trên nền tảng đó, Lào Cai sẽ xây dựng một không gian phát triển đa ngành, hội tụ các trung tâm thương mại, logistics, dịch vụ biên mậu, công nghiệp và đô thị hiện đại, mang tính hội nhập sâu rộng.
Đặc biệt, quy hoạch điều chỉnh phân chia khu kinh tế thành ba vùng phát triển, dựa trên đặc thù từng cửa khẩu quốc tế:
Cửa khẩu quốc tế Lào Cai (2.436 ha): Định hướng phát triển trung tâm thương mại, dịch vụ du lịch, công nghiệp, phát triển đô thị và dân cư nông thôn. Ga Lào Cai sẽ trở thành đầu mối liên vận quốc tế quan trọng trên tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, kết nối trực tiếp với ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc).
Cửa khẩu quốc tế Bản Vược (7.929 ha): Được định hướng phát triển mạnh thương mại dịch vụ, công nghiệp, logistics, kho bãi, du lịch qua biên giới, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, cùng với không gian đô thị và dân cư nông thôn hiện đại.
Cửa khẩu quốc tế Mường Khương (5.565 ha): Tập trung vào thương mại dịch vụ, trung chuyển và trao đổi hàng hóa cư dân biên giới, sản xuất nông – lâm nghiệp, phát triển đô thị. Đô thị Mường Khương sẽ là trung tâm động lực cho cả khu vực phía Bắc của tỉnh.

Khu cửa khẩu kinh tế Lào Cai. Ảnh: TL
Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai được tổ chức thành 11 khu chức năng, bao gồm: khu vực cửa khẩu và lối thông quan; khu công nghiệp; khu khai thác khoáng sản; dịch vụ hậu cần và cảng cạn; khu hỗn hợp; khu du lịch, vui chơi giải trí, thể thao; nông – lâm nghiệp; không gian đô thị; dân cư nông thôn; an ninh – quốc phòng và khu bảo tồn cảnh quan.
Hệ thống hạ tầng kinh tế – xã hội, giao thông nội – ngoại vùng, cảng cạn và đường sắt sẽ được phát triển đồng bộ, hiện đại. Các khu công nghiệp như Bản Qua, Bát Xát, Cốc Mỳ – Trịnh Tường và Bắc Duyên Hải sẽ được chuyển đổi chức năng phù hợp khi hội đủ điều kiện. Ngoài ra, khu hợp tác kinh tế qua biên giới bố trí tại Kim Thành – Bản Vược, khu mậu dịch tự do tại Bản Vược và các khu thương mại biên giới sẽ được mở rộng, gắn với dịch vụ hậu cần và du lịch.
Để triển khai hiệu quả, Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Lào Cai công bố công khai đồ án quy hoạch, ban hành quy định quản lý và tổ chức thực hiện. Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm thẩm định, bảo đảm nội dung điều chỉnh đúng quy định pháp luật. Các bộ, ngành Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ sẽ phối hợp với địa phương, nhằm bảo đảm sự thống nhất với quy hoạch ngành và quy hoạch tỉnh đã được phê duyệt.
Ý nghĩa chiến lược ở tầm quốc gia và khu vực
Điều chỉnh quy hoạch Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến năm 2045 không chỉ có ý nghĩa đối với tỉnh Lào Cai, mà còn mang tầm vóc quốc gia và khu vực. Với vị trí trung tâm trên hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, khu kinh tế giữ vai trò cửa ngõ giao thương quan trọng giữa Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời mở ra cơ hội kết nối sâu rộng với thị trường ASEAN – Trung Quốc.
Quy hoạch mới giúp tăng cường năng lực logistics quốc tế, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác thương mại biên giới. Qua đó, Lào Cai có thể trở thành động lực phát triển lan tỏa cho toàn vùng trung du và miền núi phía Bắc, đồng thời là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng khu vực, gắn kết với hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS).
Đặc biệt, việc phát triển gắn với củng cố quốc phòng – an ninh và chủ quyền biên giới khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong xây dựng vùng biên giới hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai vì thế không chỉ là động lực phát triển kinh tế – xã hội, mà còn là “phên dậu” vững chắc của Tổ quốc trong giai đoạn hội nhập sâu rộng.



