Tóm tắt: Hội nhập quốc tế (HNQT) là một nội dung lớn có ý nghĩa chiến lược trong đường lối đối ngoại nói riêng và trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII khẳng định, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định và khẳng định, đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả” (1) nhằm định vị vững chắc hơn nữa vị thế và uy tín của Việt Nam trong quan hệ với các nước, đặc biệt là các nước lớn trong bối cảnh cục diện khu vực, thế giới có nhiều biến đổi.
Từ khóa: Hội nhập quốc tế; Đại hội lần thứ XIII; chủ động và tích cực; toàn diện; sâu rộng.
- Chủ trương hội nhập quốc tế của Việt Nam từ lúc bước vào đổi mới đến Đại hội lần thứ XII của Đảng (1986 - 2016)
Khái niệm HNQT xuất hiện ở Việt Nam từ khá lâu, song từ Đại hội VI (năm 1986) nhận thức và triển khai thực hiện HNQT bắt đầu được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, chú trọng nhiều hơn trong xây dựng, hoạch định và thực thi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Cách mạng Việt Nam. Quan điểm, tư duy về HNQT của Việt Nam cũng từng bước được nhìn nhận đầy đủ, hoàn chỉnh hơn theo từng bước phát triển của thực tiễn đất nước.
Thuật ngữ “hội nhập” chính thức được đề cập trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996). Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiến thêm một bước trong nhận thức và hành động HNQT; đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” (2). Tại Đại hội XI của Đảng (2011), tư duy nhấn mạnh hội nhập kinh tế quốc tế được chuyển sang “hội nhập quốc tế” toàn diện, trên mọi lĩnh vực hợp tác quốc tế của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định 8 phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó, phương hướng thứ năm là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” (3). Đến ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “về hội nhập quốc tế” nêu ra những định hướng quan trọng, làm rõ và thống nhất nhận thức về HNQT và là bước phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại.
Tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục đặt ra yêu cầu cao hơn nữa, đó là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực HNQT; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới” (4); “triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực HNQT” (5).
Sau 35 năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, chủ động tích cực HNQT, đến nay, Việt Nam đã tiến hành HNQT trên tất các lĩnh vực: hội nhập kinh tế quốc tế; hội nhập trên lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và trên nhiều lĩnh vực khác (văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo,...). Qua đó, Việt Nam đã thu được nhiều kết quả và những thành tựu nổi bật, thể hiện trên các vấn đề lớn như sau:
Thứ nhất, đã đẩy lùi được chính sách cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế đối với nước ta, đồng thời mở rộng quan hệ với các quốc gia, với các nước lớn và các trung tâm hàng đầu thế giới. Tính đến tháng 12/2021, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên Liên hợp quốc, trong đó Việt Nam đã xác lập 3 quan hệ đặc biệt 17 quan hệ đối tác chiến lược, 13 quan hệ đối tác toàn diện(6). Việt Nam trở thành nước duy nhất tại khu vực Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và toàn bộ G7, 13/20 nước G20, 8/9 nước ASEAN, xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với những nước có vai trò quan trọng ở các khu vực khác như châu Phi, Mỹ Latinh (7)… góp phần định vị vững chắc hơn vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn trong bối cảnh cục diện khu vực, thế giới có nhiều biến đổi.
Thứ hai, đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế - xã hội. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 244 thị trường tại tất cả các châu lục, là thành thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế, các tổ chức tài chính toàn cầu như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới,… Việt Nam đã phê chuẩn và triển khai có hiệu quả Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA); tham gia ký Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực. Đã có 71 nước công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường(8), với nhiều sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng, như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Mỹ...
Thứ ba, giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời từng bước giải quyết được nhiều vấn đề biên giới trên bộ, với các nước có liên quan, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để quản lý biên giới, mở rộng hợp tác, HNQT, góp phần củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực. Trong bảng xếp hạng Chỉ số sức mạnh tại châu Á do Viện Lowy (Trung tâm nghiên cứu chính sách đối ngoại độc lập của Ô-xtray-li-a, thuộc danh sách 30 trung tâm hàng đầu thế giới) công bố ngày 19/1/2020, Việt Nam tăng một bậc từ 13 lên 12. Trong đó, về ảnh hưởng ngoại giao, chúng ta tăng 3 bậc, vượt lên đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á.
Thứ tư, Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả, là thành viên tích cực, đóng góp trách nhiệm vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, cho xu thế hòa bình, hợp tác. Các hoạt động HNQT toàn diện sâu rộng và ngoại giao đa phương đã giúp Việt Nam khẳng định và nâng tầm năng lực khởi xướng, dẫn dắt và hòa giải của Việt Nam qua đảm nhận thành công nhiều trọng trách.
Thứ năm, góp phần tích cực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân cũng như giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường. Các địa phương, doanh nghiệp và người dân ngày càng có điều kiện tham gia, tận dụng các cơ hội mà HNQT mang lại; góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chủ trương hội nhập quốc tế được khẳng định tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Tại Đại hội XIII, Đảng xác định triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả về chủ động và tích cực HNQT toàn diện, sâu rộng với các điểm bổ sung, phát triển và cả những điểm mới sau đây:
Thứ nhất, Đại hội XIII xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi” (9). Trong bối cảnh thế giới hiện nay, sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia ngày càng tăng lên, tất cả các nước đều chịu ràng buộc bởi luật chơi chung, mỗi quốc gia không còn là một cá thể riêng biệt mà phải chấp nhận hoặc gắn bó với nhau trong các mối quan hệ, liên kết hợp tác và cả cạnh tranh xung đột do sự đan xen cùng chiều và khác biệt về lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong quan hệ phức tạp đó, bất kể quốc gia nào nếu chỉ theo đuổi lợi ích vị kỷ của mình sẽ dẫn tới căng thẳng, đối đầu. Chính vì thế, Văn kiện Đại hội XIII xác định như vậy là thấu đáo, nhạy bén và xác đáng trong tình hình thế giới hiện nay.
Thứ hai, chủ động và tích cực HNQT toàn diện, sâu rộng. Nếu Đại hội XII chủ trương, triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đại hội XIII cụ thể hóa hơn Đại hội XII và xác định những định hướng và nhiệm vụ sâu rộng hơn về HNQT: “Chủ động và tích cực HNQT, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và HNQT; thúc đẩy HNQT toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực HNQT toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước” (10).
Thứ ba, tại Đại hội XIII, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn các đặc điểm của môi trường quốc tế cũng như các hệ thống công cụ, quyền lực được sử dụng để chi phối, kiểm soát và vận dụng linh hoạt trong quá trình HNQT. HNQT không giới hạn trong một phạm vi hay một lĩnh vực nào của đời sống quốc tế mà nó lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Thực hiện HNQT toàn diện, sâu rộng là tham gia vào các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Muốn việc thực hiện đó có hiệu quả nhất định phải tăng cường nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc.
- Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Cục diện thế giới và khu vực biến đổi khó lường, khó đoán định, gây không ít khó khăn cho công tác dự báo chiến lược. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, các nguy cơ an ninh được dự báo sẽ tiếp tục diễn ra phức tạp, gay gắt hơn trước. Các thách thức an ninh phi truyền thống, như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh mạng,.. ngày càng gia tăng. Các vấn đề này đặt ra cho Việt Nam phải đẩy mạnh tham gia chủ động, tích cực, trách nhiệm và sâu hơn vào quá trình định hình và cải cách các định chế, cơ chế, cấu trúc khu vực và quốc tế để vừa đem lại lợi ích và vị thế của Việt Nam, vừa tạo điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Ngày nay, HNQT chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”. Các vấn đề luật hóa và thực hiện các cam kết FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao, cùng với vấn đề mới trong bổ sung, nâng cấp những điều khoản cũng là một trong những thách thức đối với Việt Nam. Bên cạnh đó, còn việc phải nắm bắt được cơ hội, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Quá trình HNQT và quá trình đổi mới ở trong nước, đòi hỏi sự đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách phải được thực hiện một cách đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,… Các nguy cơ đối với an ninh, trật tự xã hội và chủ quyền, bảo vệ chế độ trong bối cảnh ngày nay có nhiều diễn biến phức tạp. Sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, phức tạp thông qua sự phổ biến của các phương tiện truyền thông xã hội dẫn đến nguy cơ phát sinh các bất ổn xã hội nhiều và phức tạp hơn trước,... Hội nhập kinh tế quốc tế không tách rời việc củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn môi trường sinh thái. Hội nhập trên các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể theo lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.
Với các vấn đề đặt ra nêu trên, để hội HNQT toàn diện trong giai đoạn hiện này có hiệu quả cần thực hiện triển khai một hệ thống các giải pháp như sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng về “hội nhập quốc tế” để làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của HNQT trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và tích cực HNQT.
Thứ hai, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại được khẳng định tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình HNQT; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa các cấp, các ngành, địa phương. Quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về yêu cầu HNQT, về các cơ hội và thách thức, về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu của HNQT trong từng ngành, từng lĩnh vực, để thống nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình HNQT của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, của toàn dân, doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức,… trong xã hội.
Thứ ba, trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam cần đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là khung khổ các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của đất nước, thúc đẩy quan hệ trên tất cả các lĩnh vực, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển đất nước và HNQT của Việt Nam. “Chủ động xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực, trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu” (11). Chủ động trong việc lựa chọn đối tác và xây dựng phương án đàm phán với từng đối tác trên cơ sở cùng có lợi.
Thứ tư, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả HNQT, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế. Theo đó, Việt Nam cần tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân nhận thức đúng thách thức cũng như cơ hội mà họ có được từ quá trình HNQT để họ tham gia một cách chủ động và tích cực, biến quá trình HNQT chủ yếu là các hoạt động của các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của bộ ngành, từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp và người dân.
Thứ năm, trong quá trình triển khai các định hướng lớn về HNQT được xác định trong Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng, Việt Nam cần tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030 và các Đề án, Kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị khóa XI về hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Thứ sáu, chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia qua việc đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng cho mọi tổ chức, doanh nghiệm, người dân tham gia phát triển sản xuất kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; tạo cơ chế chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực.v.v..
Thứ bảy, hội nhập kinh tế là trọng tâm của HNQT. Vì vậy, trong hội nhập kinh tế, Việt Nam cần tập trung giải quyết các vấn đề: Gắn kết hội nhập kinh tế quốc tế với cải cách trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế, mục tiêu chính trị - ngoại giao và mục tiêu chiến lược trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, cư chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết hội nhập, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Kiện toàn củng cố và phát triển bộ máy, đội ngũ cán bộ, lực lượng làm công tác đối ngoại, HNQT. Bài học kinh nghiệm của các nước và Việt Nam cho thấy, phải chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ, nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập thì mới có thể chủ động và tích cực HNQT một cách hiệu quả,..
Sau 35 năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, chủ động tích cực HNQT, đến nay, Việt Nam đã tiến hành HNQT trên tất các lĩnh vực: hội nhập kinh tế quốc tế; hội nhập trên lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và trên nhiều lĩnh vực như văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo,... Đặc biệt, Đảng đã xây dựng những chủ trương đúng đắn cho công tác đối ngoại và HNQT trên tất cả các trụ cột: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân. Nhờ đó, Việt Nam đã thu được nhiều kết quả và những thành tựu hết sức nổi bật. Chúng ta có quyền tự hào về những thành tựu đạt được, đồng thời tin tưởng, với định hướng, chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”; xử lý tốt “mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”,…Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, HTQT có hiệu quả nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, là thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm trong nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế.
Thạc sỹ Phan Tăng Tuấn, Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Học viện Chính trị khu vực I
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1), (9), (10), (11) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập I, tr.117; tr.161-162; tr.164; tr.69.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, HN, tr.112.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, HN, tr.72.
(4), (5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.79; tr.154.
(6) Dẫn theo: https://dangcongsan.vn/multimedia/infographic/thanh-tuu-cua-doi-ngoai-viet-nam-trong-thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te-599600.html
(7) Thúy Minh: “Đối ngoại Việt Nam năm 2020: Tự tin vững bước trên con đường phát triển”, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/821527/doi-ngoai-viet-nam-nam-2020--tu-tin-vung-buoc-tren-con-duong-phat-trien.aspx
(8) Lê Quang Mạnh: “Khẳng định vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam”, https://dangcongsan.vn/tieu-diem/khang-dinh-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-cua-viet-nam-592373.html