21/12/2025 lúc 10:06 (GMT+7)
Breaking News

Cần một tư duy chiến lược và hiệu quả toàn diện trong hoạch định chính sách công

Chính sách công (CSC) là chính sách của Nhà nước, do Nhà nước ban hành và thể hiện vai trò của Nhà nước trong quản lý xã hội. CSC là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của quốc gia nhằm hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước, là công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và tạo điều kiện xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội tại những thời điểm nhất định.

Hoạch định CSC – Những thành quả và một số hạn chế

Vai trò cơ bản của CSC thể hiện ở chỗ là công cụ hữu hiệu chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, duy trì sự tồn tại và phát triển của nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. Dưới góc độ quản lý, quản trị quốc gia, nhà nước sử dụng CSC như một công cụ quan trọng tác động vào các lĩnh vực đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng của nhà nước. Vì vậy, để CSC thực sự đi vào đời sống xã hội, ngay từ công tác hoạch định CSC đã phải được thực hiện với một ý thức đầy đủ nhất của tinh thần vì lợi ích chung. Muốn vậy, cơ quan/người tham gia hoạch định CSC phải có tư duy chiến lược và hiệu quả toàn diện.

Sau 37 năm đổi mới, công tác hoạch định CSC cửa nước ta  đã không ngừng được hoàn thiện, nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Trong quá trình thực hiện vai trò, chức năng quản lý, điều hành xã hội, Nhà nước đã xây dựng, hoạch định và ban hành nhiều chính sách công. Các chính sách công này cùng hệ thống chính sách, giải pháp toàn diện, đồng bộ khác đã phát huy giá trị, hiệu quả, góp phần vào những thành tựu tăng trưởng, phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội của đất nước. Hiện nay, Việt Nam vẫn đang tập trung vào việc hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và thực hiện chính sách công.  Các cơ quan chức năng cũng đang nỗ lực đưa ra các chính sách phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và đáp ứng yêu cầu của thị trường và người dân. Một số CSC quan trọng đã được hoạch định và ban hành dựa trên cơ sở luận chứng khoa học, lý luận và thực tiễn vững chắc, thiết thực hơn. Nhờ đó, Việt Nam đã bước đầu tạo lập được một hệ thống CSC đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quản lý Nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển KT-XH, có khả năng ứng phó với những biến động của tình hình trong nước, quốc tế.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác hoạch định chính sách công vẫn còn một số bất cập, hạn chế dẫn đến hiệu quả chưa cao. Trong đó, vẫn còn  yếu tố chủ quan chi phối hoạt động hoạch định chính sách, chưa đạt được tính tham gia và đóng góp đầy đủ của các bên liên quan, bao gồm các chuyên gia, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân. Bên cạnh đó, năng lực dự báo của nhà hoạch định chính sách còn nhiều hạn chế; nguyên nhân của tình trạng này là thiếu dữ liệu và thông tin. Thêm nữa, công tác hoạch định chính sách công còn chưa đạt được định hướng dài hạn, đồng thời còn phụ thuộc nhiều vào những tình huống ngắn hạn, khó khăn và áp lực từ thực tiễn, dẫn đến sự thiếu ổn định và không bền vững của các chính sách. Việc hoạch định các chính sách hiện nay còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, thường chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu kế hoạch hành động cụ thể.  Công tác hoạch định chính sách công ở Việt Nam vẫn chưa đạt được tính nhất quán và đồng bộ trong việc quy hoạch, thiết kế và triển khai chính sách công. Dễ xảy ra trùng lắp, chồng chéo giữa các chính sách, đồng thời chưa bảo đảm tính liên kết, đồng bộ giữa các cấp, các ngành và địa phương….

Một cách tổng thể, có thể thấy CSC hiện nay chưa theo kịp tình hình thực tiễn. Đời sống kinh tế – xã hội luôn vận động và phát triển, nảy sinh nhiều vấn đề mới, nhiều vấn đề bức thiết diễn ra cần có chính sách để giải quyết nhưng chính sách chưa theo kịp để can thiệp, giải quyết. Nhiều chính sách ban hành do nhiều lý do khác nhau nên không triển khai được vào thực tế. Về thực thi CSC, còn có những hạn chế như: chưa bảo đảm tính kịp thời, nhất quán, đồng bộ, đặc biệt là chính sách kinh tế, an sinh xã hội. Việc thể chế hóa chủ trương chính sách vào thực tế còn chậm. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách chưa kịp thời, phương pháp tuyên truyền chưa phù hợp dẫn đến các cơ quan, tổ chức và cá nhân hiểu không đầy đủ, thậm chí hiểu sai về chính sách. Nguồn lực triển khai thực hiện chính sách còn hạn chế, nguồn lực tài chính còn nặng về cơ chế “xin – cho”; về năng lực, trình độ của cán bộ, công chức, đặc biệt là thái độ trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách còn hạn chế. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát chưa kịp thời, còn mang tính hình thức, điều đó làm ảnh hưởng tiêu cực đến thực hiện chính sách….

Giải pháp đổi mới quá trình hoạch định và thực thi chính sách công

Trên cơ sở những hạn chế đã nhìn nhận, để công tác hoạch định và thực hiện CSC được hòa thiện và mang lại kết quả tốt hơn, các chuyên gia đã nêu một số giải pháp sau:

Một là, đổi mới tư duy hoạch định và thực thi CSC, phải đặt hoạt động hoạch định và thực thi CSC trong mối quan hệ biện chứng với nhau, có tính tương hỗ với nhau, cần có quy định thống nhất, xuyên suốt. Đổi mới cách nghĩ, cách làm;  Chủ thể hoạch định chính sách công cần nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề cần định hướng chính sách. Tăng cường phản biện xã hội và tham khảo ý kiến của những cấp, ngành, đơn vị liên quan cũng như của các chuyên gia.

Hai là, đổi mới quá trình hoạch định và thực thi CSC theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch; huy động sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi CSC. Nhà nước cần xây dựng các cơ chế để thực hiện tư vấn và tham khảo ý kiến đầy đủ, minh bạch và đáp ứng các yêu cầu của người dân. Việc tăng cường sự tham gia của công dân vào quá trình hoạch định chính sách sẽ giúp bảo đảm tính minh bạch và đáp ứng các yêu cầu của dân cử; tạo điều kiện cho công dân tham gia vào quá trình hoạch định chính sách bằng cách mở rộng các kênh thông tin và tăng cường các hoạt động tư vấn, tham khảo ý kiến và phản ánh ý kiến của công dân.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải trình; quy định trách nhiệm pháp lý đủ mạnh cho các cơ quan, tổ chức và người đứng đầu cơ quan, tổ chức gắn với kết quả hoạch định và thực thi chính sách. Áp dụng công nghệ thông tin vào hoạch định chính sách giúp cho việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin được nhanh chóng và chính xác hơn.

Bốn là, các cơ quan có thẩm quyền hoạch định và thực thi chính sách cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách.

Năm là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa hoạch định và thực thi chính sách, trong đó có quy định đến việc huy động sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Tạo mối liên hệ thường xuyên, liên tục giữa các cơ quan chính quyền và các doanh nghiệp, người dân.

Sáu là, các cơ quan, tổ chức phải tạo được niềm tin từ phía người dân. Để xây dựng lòng tin với người dân, khi huy động sự tham gia của người dân, các cơ quan hoạch định và thực thi CSC phải làm một cách thực chất, tránh bệnh hình thức, tránh tình trạng “làm cho có”, những ý kiến đóng góp của người dân phải được nghiêm túc tiếp thu (nếu đúng) hoặc phải giải trình (nếu không tiếp thu). Nhà nước cần xây dựng các cơ chế kiểm tra và đánh giá kết quả của các chính sách được đưa ra để bảo đảm tính minh bạch và chính xác.

Bảy là, hoạch định và tổ chức thực thi CSC một cách khoa học, hợp lý, gắn việc phân công trách nhiệm cụ thể với cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm việc hoạch định và thực hiện chính sách ở tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân. Tăng cường đào tạo và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức hoạch định chính sách. Nhà nước cần đầu tư vào các chương trình đào tạo và nâng cao năng lực cho các cơ quan chính quyền. Cải cách thủ tục hành chính cần mạnh mẽ và thực chất: bộ máy công quyền, thực thi các chính sách của nhà nước cần lựa chọn những cán bộ đầy đủ phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn và tinh thần phụng sự nhân dân, phụng sự đất nước. Cần lấy tiêu chí hành động và kết quả công việc làm thước đo cán bộ, công chức và có biện pháp sàng lọc bộ máy để đảm bảo cán bộ, công chức phải là những người tâm huyết và dám hành động. Đồng thời, hình thành cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.

Một vấn đề quan trọng nữa là, trong điều kiện kinh tế thị trường, vấn đề hoạch định CSC đòi hỏi những yêu cầu gắn với thực tiễn hơn, trên cơ sở một tư duy phù hợp, vừa mang tính chiến lược, vừa mang tính hiệu quả toàn diện.

Trong thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước ngày nay, tư duy chiến lược được xếp hạng là một trong những năng lực lãnh đạo quan trọng nhất. Đối với nhà lãnh đạo, nhà quản lý cấp cao trong bộ máy nhà nước, tư duy chiến lược là phương thức tư duy không thể thiếu của nhà lãnh đạo trong hoạch định chính sách công. Ở đây, tư duy chiến lược chính là cách thức, quy trình và năng lực tư duy để đưa ra một chính sách có tính chiến lược, phát huy tác dụng trong một giai đoạn lâu dài, nghĩa là có tính sâu, rộng, dài hạn, có hệ thống và tính phản biện khoa học. Nói cách khác,  tư duy chiến lược đòi hỏi nhà hoạch định chính sách phải có tầm nhìn bao quát, thấy được những gì đang diễn ra và xu hướng biến đổi của môi trường xung quanh tác động đến vấn đề chính sách trong thời gian tới, hệ quả của vấn đề chính sách trong môi trường thay đổi… Trên cơ sở đó, nhà hoạch định chính sách có thể định hình mục tiêu của chính sách đáp ứng các biến đổi của môi trường trong tương lai.

Như đã nói ở trên, bên cạnh tư duy chiến lược, trong hoạch định chính sách còn cần có tư duy hiệu quả toàn diện. Việc đánh giá hiệu quả của chính sách sẽ không đơn thuần là hiệu quả về mặt kinh tế hay xã hội một cách tách biệt, mà cần xem xét một cách toàn diện trên các mặt. Mỗi chính sách công đều tạo ra các tác động chính sách đối với xã hội, cộng đồng. Vì vậy, trong hoạch định chính sách cần xem xét đánh giá đầy đủ các tác động mà chính sách có thể tạo ra, từ đó có thể dự báo được hiệu quả của chính sách một cách toàn diện.

Trên thực tế, một dự thảo chính sách khi được đưa ra có thể nhận được nhiều ý kiến tranh luận, bao gồm cả những ý kiến đồng thuận và những ý kiến trái chiều, đặc biệt khi vấn đề chính sách liên quan đến những lợi ích khác biệt nhau. Trong trường hợp này, nhà hoạch định chính sách cần có lập trường rõ ràng, quán triệt các nguyên tắc cơ bản trong lựa chọn chính sách để nhìn nhận và tiếp thu các ý kiến đóng góp. Nhưng không có nghĩa là người hoạch định chính sách gạt ra ngoài các ý kiến trái chiều, ngược lại, cần quan tâm xem xét, phân tích và thảo luận trong nhóm về những nhân tố hợp lý cần tiếp thu trong các ý kiến trái chiều này. Ý kiến của các bên liên quan đóng góp cho dự thảo chính sách cần được xem xét kỹ, phân tích và tiếp thu một cách nghiêm túc. Đó cũng là một cách để CSC được hoàn thiện tốt hơn./.

TS. Lê Đình Tuyển

...