Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới để quân và dân ta tiến lên "đánh cho ngụy nhào" với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển ở Việt Nam.
Đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Nguồn: Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng
Độc lập, tự cường và toàn vẹn non sông là nguyên tắc bất biến
Độc lập, tự cường và toàn vẹn non sông là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh kiên cường bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, ông cha ta luôn chú trọng hoạt động ngoại giao, tạo nên truyền thống và bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam đầy hào khí, hòa hiếu, trọng lẽ phải, chính nghĩa và công lý: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn; Lấy chí nhân mà thay cường bạo!"; "Dập tắt muôn đời lửa chiến tranh; Mở nền muôn thủa thái bình!" ("Bình Ngô đại cáo" - Nguyễn Trãi). Đây là những tư tưởng, triết lý mãi trường tồn cùng dân tộc Việt Nam. Những truyền thống và bản sắc tốt đẹp này được bồi đắp, phát huy và toả sáng trong thời đại Hồ Chí Minh, phát triển nên thành nền ngoại giao Việt Nam hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đặt nền móng, trực tiếp chỉ đạo và dẫn dắt sự phát triển của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. Những nội dung cơ bản của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đều bắt nguồn từ triết lý và truyền thống ngoại giao của ông cha ta, và chính Người đã phát triển những giá trị đó lên tầm cao mới. Đó là kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước, văn hoá dân tộc, truyền thống ngoại giao Việt Nam với tinh hoa văn hoá và kinh nghiệm ngoại giao thế giới. Trong đó, luôn đề cao mục tiêu độc lập dân tộc, tinh thần hoà hiếu, hữu nghị, dùng ngoại giao để đẩy lùi xung đột; gắn với thực tiễn của thế giới, để đưa Việt Nam hoà nhập vào dòng chảy của thời đại. Người chủ trương: độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tự lực, tự cường phải gắn với đoàn kết quốc tế; phát huy sức mạnh dân tộc gắn với sức mạnh thời đại; chăm lo, xây dựng mối quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, bạn bè truyền thống và nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới. Trong hoạt động đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quán triệt quan điểm chỉ đạo là "phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ" để "biết mình, biết người", "biết thời, biết thế" để "cương nhu kết hợp" vì lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc. Người chủ trương phải phát huy vai trò của luật pháp quốc tế, vận dụng những giá trị của văn hoá và của ngoại giao truyền thống Việt Nam, cũng như các tư tưởng phổ biến, tiến bộ của nhân loại, chú ý tìm ra những điểm tương đồng, nêu cao tính nhân văn, nhân nghĩa và đạo lý, pháp lý trong quan hệ quốc tế để thuyết phục, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới...
Nhờ đó, cùng với các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá... mặt trận ngoại giao luôn luôn đóng vai trò trọng yếu trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, góp phần tạo nên những thắng lợi hết sức to lớn, làm rạng rỡ lịch sử của Dân tộc. Đặc biệt là trong việc "vừa đánh, vừa đàm", đàm phán, bảo vệ Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ, lúc mới thành lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945; đàm phán, ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954, góp phần giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; đàm phán, ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973, tạo tiền đề để nhân dân ta thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển phồn vinh.
Hiệp định Paris về Việt Nam là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân năm 1968, Hội nghị Paris chính thức diễn ra, đánh dấu cuộc đọ sức trên mặt trận ngoại giao, tạo cục diện "vừa đánh vừa đàm". Khác với Hội nghị quốc tế Giơnevơ về Đông Dương năm 1954, Hội nghị Paris là một cuộc đàm phán tay đôi do Việt Nam thắng lớn và chủ động đề xướng. Còn Mỹ, bị thất bại nặng nề buộc không thể không chấp nhận thương lượng để tìm một lối thoát danh dự. Mỹ phải coi Việt Nam dân chủ cộng hoà là một bên đối thoại trực tiếp và bình đẳng để giải quyết mọi vấn đề của cuộc chiến tranh Việt Nam. Cuộc đàm phán Paris mở ra cục diện “vừa đánh, vừa đàm”, phản ánh một giai đoạn chiến đấu cực kỳ gay go, quyết liệt giữa Việt Nam và Mỹ. Đây cũng là đỉnh cao của sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cả 3 mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao; giữa cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Nam trên chiến trường với cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán và trên trường quốc tế.
Ngày 13/5/1968, Hội nghị Paris về Việt Nam chính thức khai mạc. Khác với Hội nghị Geneva năm 1954, khi đó ta "đánh rồi mới đàm", lần này ta vừa đánh vừa trực tiếp đàm phán với đối phương. Trong giai đoạn 1 của Hội nghị (từ ngày 13/5 đến 31/10/1968), mục tiêu của ta là đòi Mỹ chấm dứt ném bom vô điều kiện miền Bắc. Giai đoạn này, đàm phán diễn ra gần như đồng thời với đợt hai và ba của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Hai mặt trận đánh-đàm đã có sự phối hợp, hỗ trợ cho nhau nhưng tác dụng trực tiếp còn ít vì trên bàn thương lượng, Mỹ chưa đi vào đàm phán thực chất, chưa "ngả bài" hoàn toàn. Ta chủ yếu đấu tranh để kéo Mỹ xuống thang từng bước.
Sau khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc hoàn toàn, giai đoạn 2 bắt đầu từ 25/1/1969, khi mở ra đàm phán 4 bên, các cuộc gặp riêng Lê Đức Thọ - H.Kissinger và đi đến ký Hiệp định Paris về Việt Nam. Càng về cuối cục diện "vừa đánh vừa đàm" càng được phát huy cao độ. Đỉnh cao trong việc vận dụng thành công nghệ thuật này được thể hiện ở thời điểm tháng 3/1972 khi Mỹ đơn phương ngừng không thời hạn Hội nghị Paris, ném bom trở lại miền Bắc. Trung ương Đảng vẫn chủ trương duy trì Hội nghị Paris với mục tiêu làm diễn đàn tuyên truyền để tranh thủ dư luận quốc tế và kết hợp với chiến trường để đấu tranh với Mỹ về mặt ngoại giao. Quán triệt chỉ đạo này, phái đoàn ta tại Paris đã đấu tranh, đòi Mỹ phải nối lại đàm phán theo hướng giải quyết toàn bộ về vấn đề chiến tranh Việt Nam.
Từ giữa năm 1972, chính quyền Mỹ ráo riết thực hiện chính sách ngoại giao con thoi, tìm mọi cách để cô lập Việt Nam, thực hiện đàm phán với ta trên thế mạnh, ép chúng ta nhượng bộ và chấp nhận những đòi hỏi phi lý. Thậm chí, để phá thế bế tắc, từ ngày 18 đến 30/12/1972, Mỹ sử dụng máy bay B-52 ném 10 vạn tấn bom xuống các tỉnh miền Bắc. Nhưng bằng ý chí kiên cường, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng lịch sử "Điện Biên Phủ trên không". Đây là đòn quyết định buộc Mỹ phải ngừng ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris. Theo nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, điều quyết định vẫn là trên chiến trường, chiến trường có thắng được chúng ta mới có thể đưa ra những yêu cầu cao đối với Mỹ, mới yêu cầu Mỹ rút quân và quân đội ta vẫn ở lại miền Nam. Nếu chúng ta thất bại trên chiến trường thì phía Mỹ không bao giờ chấp nhận các điều kiện của ta. Do đó đối thoại ở Paris là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bàn Hội nghị và chiến trường. Việc chủ động bước vào cục diện "vừa đánh, vừa đàm" thực sự là một sáng tạo lớn của Đảng ta, thể hiện sự độc lập tự chủ về đường lối. Đây cũng là bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu đối với chúng ta.
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký tắt ngày 13/1/1973. Ngày 27/1/1973 lễ ký chính thức đã diễn ra tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe (Paris).
Để có được một Hội nghị Paris khai cuộc ngày 13/5/1968 đã là khó khăn không hề nhỏ, nhưng để có một Hội nghị Paris kết thúc với kết quả đúng như phía ta mong muốn lại còn khó khăn gấp bội. Thậm chí, nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, có lẽ chưa có cuộc đàm phán nào kéo dài và cam go như Hội nghị Paris: tới 4 năm, 8 tháng, với vô vàn những giằng co, đấu trí, đấu lý căng thẳng, quyết liệt, kiên trì, bền bỉ đeo đuổi nhau từng chút một giữa ta và Mỹ.
Có thể nói, ngoại giao đã trở thành một mặt trận tiến công, kết hợp nhuần nhuyễn và chuyển hóa hoàn toàn thắng lợi trên mặt trận chính trị, quân sự thành thắng lợi trên bàn đàm phán, thể hiện sáng ngời bản lĩnh, cốt cách và trí tuệ Việt Nam, thấm đượm tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.
Hiệp định Paris không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, mà còn đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tự do, tiến bộ và công lý.
Nhiều bài học mãi mãi còn nguyên giá trị
Nhìn lại cuộc đấu tranh ngoại giao đưa đến ký kết Hiệp định Paris là ôn lại một chặng đường hào hùng trong lịch sử dân tộc, lan tỏa và giáo dục truyền thống vẻ vang của nền ngoại giao Việt Nam độc đáo và đặc sắc. Quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris là một pho sách vô cùng quý báu về trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều bài học mãi mãi còn nguyên giá trị.
Trước hết, đó là bài học về kiên định độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, vì lợi ích quốc gia-dân tộc. Đây vừa là nguyên tắc nhất quán, vừa là bài học lớn của cách mạng Việt Nam nói chung và đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris nói riêng. Độc lập, tự chủ trong mọi quyết sách, trong từng bước đi, đã giúp Việt Nam luôn giữ vững thế chủ động tiến công, kiên định mục tiêu và nguyên tắc nhưng linh hoạt trong sách lược đàm phán, nhờ đó luôn bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc.
Thứ hai, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh dân tộc là sức mạnh của giương cao ngọn cờ chính nghĩa: hòa bình, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; là sức mạnh của đường lối, sách lược cách mạng đúng đắn của Đảng; là sức mạnh khối đại đoàn kết, truyền thống yêu nước, bản sắc văn hóa và ngoại giao của dân tộc; là sức mạnh từ sự kết hợp tài tình giữa các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao… Sức mạnh thời đại thể hiện ở khát vọng chung của các quốc gia, dân tộc về hoà bình, phát triển, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, tôn trọng công lý và phẩm giá con người… Sức mạnh dân tộc kết hợp với sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của mình.
Thứ ba, bài học về kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Mục tiêu và nguyên tắc của chúng ta là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tôn trọng chủ quyền quốc gia như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Sách lược của chúng ta là “vừa đánh, vừa đàm”, sáng tạo, linh hoạt điều chỉnh tùy theo từng vấn đề, từng thời điểm, từng đối tác trên cơ sở kiên định mục tiêu chiến lược.
Thứ tư, bài học về phong cách, nghệ thuật đối ngoại và ngoại giao mang đậm tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh như bài học về nghiên cứu, đánh giá và dự báo tình hình, “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”; về biết giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng; về tạo dựng và nắm bắt thời cơ để chuyển hóa thắng lợi trên chiến trường thành thắng lợi trên bàn đàm phán; về kết hợp tài tình giữa chiến lược và sách lược, giữa chính trị-quân sự và ngoại giao, giữa ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân, giữa độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, giữa các lực lượng ngoại giao của miền Bắc và miền Nam, tuy hai mà một, tuy một mà hai...
Thứ năm, bài học về chủ động, tích cực xây dựng lực lượng ngoại giao, trong đó cán bộ là khâu then chốt. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và với tầm nhìn chiến lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ đạo việc xây dựng lực lượng cán bộ cho đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Từ Hội nghị Geneva năm 1954 đến Hội nghị Paris, đội ngũ cán bộ ngoại giao Việt Nam đã trưởng thành vượt bậc, có phẩm chất cách mạng, được trang bị kiến thức đối ngoại, phương pháp, kỹ năng và nghệ thuật đàm phán. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn lựa, rèn luyện và tin tưởng giao trách nhiệm cho những cán bộ xuất sắc tham gia mặt trận ngoại giao, góp phần rất quan trọng làm nên thắng lợi tại Hội nghị Paris.
Thứ sáu, bài học bao trùm là sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nói chung và mặt trận ngoại giao nói riêng. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, phát huy truyền thống giữ nước của dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giá chính xác thực tiễn cách mạng trong nước và tình hình quốc tế, Đảng ta đã đề ra chủ trương, đường lối và sách lược cách mạng đúng đắn, mở ra mặt trận ngoại giao chủ động tiến công, phối hợp chặt chẽ và thống nhất với các mặt trận chính trị, quân sự, “vừa đánh, vừa đàm”, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành toàn thắng.
Trong công cuộc phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, bản sắc văn hóa và ngoại giao của dân tộc cùng với những bài học lịch sử của Hội nghị Paris, Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; từng bước xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Từ một nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình, có vị thế và uy tín quốc tế ngày càng cao, có chính trị-xã hội ổn định, có nền kinh tế phát triển năng động, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững, đời sống nhân dân không ngừng cải thiện. Đến nay, Việt Nam đã mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với 193 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước có quan hệ đặc biệt, 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 13 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện… Những thành tựu to lớn này càng minh chứng cho ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Paris và giá trị của chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”./.
Phương Anh - Thông tấn xã Việt Nam