26/04/2024 lúc 09:20 (GMT+7)
Breaking News

Nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường

VNHN - Thực tiễn quá trình phát triển kinh tế thế giới cũng như lịch sử phát triển các lý thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường cho thấy, mối quan hệ này gắn liền với sự phát triển của nhà nước và sự ra đời, phát triển của thị trường. Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường, trên một khía cạnh nhất định, là lịch sử của quá trình xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

VNHN - Thực tiễn quá trình phát triển kinh tế thế giới cũng như lịch sử phát triển các lý thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường cho thấy, mối quan hệ này gắn liền với sự phát triển của nhà nước và sự ra đời, phát triển của thị trường. Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường, trên một khía cạnh nhất định, là lịch sử của quá trình xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

Ảnh minh họa

Cơ sở khách quan của mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường

Thứ nhất, quan hệ giữa nhà nước và thị trường xuất phát từ chính bản thân các chức năng vốn có của nhà nước.

Về bản chất, nhà nước có một số chức năng, trong đó có chức năng kinh tế và chức năng xã hội. Nói cách khác, trong quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội, nhà nước với vai trò là một thiết chế xã hội quan trọng nhất, đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền đã can thiệp vào các hoạt động kinh tế - xã hội với mục đích thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo chiều hướng phục vụ chính cho lợi ích của giai cấp mình. Mặc dù sự phát triển của nền kinh tế vận hành theo các quy luật khách quan, song sự can thiệp của nhà nước có chủ đích đã tác động đến chiều hướng phát triển, cao hơn là định hướng sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.

Là một thiết chế xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng, nhà nước thực hiện vai trò quản lý, điều hành nền kinh tế, tuy nhiên với mỗi nấc thang phát triển, hay với mỗi mô hình kinh tế thì vai trò quản lý, điều hành của nhà nước có những sắc thái khác nhau. Đặc biệt với sự xuất hiện của thị trường và sự phát triển của kinh tế thị trường, sự can thiệp của nhà nước cũng đa dạng và linh hoạt hơn.

Thị trường, đó không chỉ là nơi diễn ra sự mua bán, mà trong quan hệ với nhà nước quản lý, đó còn là các loại thị trường, các yếu tố thị trường và các chủ thể trên thị trường. Như vậy, quan hệ giữa nhà nước và thị trường, về thực chất, là quan hệ giữa nhà nước với vai trò người quản lý và quá trình hình thành, phát triển của các loại thị trường, các yếu tố thị trường và các chủ thể thị trường.

Với chức năng kinh tế, nhà nước không chỉ là người quản lý, người ban hành các quy định, các luật chơi trên thị trường, mà nhà nước còn đóng vai trò chủ thể hoạt động sản xuất (nhất là các hàng hóa và dịch vụ công), là người mua và người bán các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Như vậy lúc này quan hệ giữa nhà nước và thị trường biểu hiện ra là quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường, quan hệ giữa những người mua và người bán hàng hóa và dịch vụ chịu sự tương tác, ràng buộc của các quy luật kinh tế trên thị trường, cũng như sự quản lý điều hành của nhà nước thông qua hệ thống quy định luật pháp và các công cụ quản lý.

Xét về mục đích thực hiện các chức năng, dù xuất hiện với tư cách nào, thì quan hệ giữa nhà nước và thị trường, về bản chất, là quan hệ lợi ích. Đó là lợi ích của nhà nước và lợi ích của các chủ thể trên thị trường. Nhà nước thực hiện quản lý là hướng tới mục đích bảo đảm cho thị trường phát triển hiệu quả. Thị trường phát triển chính là cơ sở kinh tế, bảo đảm sự phát triển của nhà nước. Do vậy trong xử lý quan hệ giữa nhà nước và thị trường cần bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể trên thị trường.

Trên thực tế, sự tương tác giữa nhà nước và thị trường đều hướng đến gia tăng lợi ích, tạo ra sự tăng trưởng nói chung của các chủ thể trên thị trường. Đây chính là mặt thống nhất trong mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, thúc đẩy nhà nước và thị trường gắn bó, tương tác với nhau. Về bản chất, đó chính là quan hệ cộng sinh, tùy thuộc vào nhau cùng phát triển, cùng đạt được lợi ích. Mặt khác trong quá trình tương tác có sự cạnh tranh vai trò, lợi ích. Khi phân vai phù hợp, đúng với trình độ phát triển và năng lực xử lý thì lợi ích sẽ được thỏa mãn. Ngược lại, khi phân vai không đúng, nhà nước lấn át thị trường, hay thị trường lấn át nhà nước thì sẽ dẫn đến kết cục: sự quản lý của nhà nước kém hiệu quả và bản thân thị trường sẽ không thể phân bổ hợp lý, hiệu quả các nguồn lực. Đây chính là mặt mâu thuẫn trong quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

Thứ hai, từ sự thất bại của thị trường.

Thị trường vận hành và phát triển theo các quy luật khách quan. Tuy nhiên bản thân thị trường không phải lực lượng vạn năng, trên thực tế, nền kinh tế thị trường không phải là nền kinh tế hoàn hảo, tối ưu mà ngay trong bản thân nó cũng vốn có những mặt trái, những thất bại mà người ta không mong muốn. Thị trường thất bại thể hiện tình trạng thị trường không phân bổ thật hiệu quả các nguồn lực, khi nó không thể sản xuất ra những hàng hóa, dịch vụ mà xã hội cần. Chính những thất bại của thị trường là cơ sở cắt nghĩa cần có sự can thiệp của nhà nước.

Sự thất bại của thị trường đã được giới kinh tế học đề cập khá rõ và có thể được tóm lược trong một số trường hợp sau: Một là, thiếu sự cạnh tranh: Yếu tố cơ bản để thị trường tạo ra đòn bẩy kinh tế là môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên do các yếu tố lịch sử, tự nhiên hoặc thể chế chính trị có thể tạo ra một hoặc số ít các doanh nghiệp độc quyền chi phối thị trường. Vì thiếu cạnh trạnh, việc cung cấp các sản phẩm thường không hiệu quả cho nền kinh tế.

Trong trường hợp này cần có sự can thiệp của nhà nước để tạo ra sự cạnh tranh cần thiết. Hai là, các ảnh hưởng ngoại vi (ngoại tác): Trong nhiều trường hợp cá nhân hoặc doanh nghiệp có thể tạo ra các ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến các cá nhân hoặc các doanh nghiệp khác mà không được bù đắp chi phí (với ảnh hưởng tốt) hoặc không phải đền bù thiệt hại (với ảnh hưởng xấu). Nếu nhà nước không có những can thiệp mạnh mẽ đúng mức, các ảnh hưởng xấu sẽ gia tăng và ảnh hưởng tốt sẽ giảm dần và không đạt được hiệu quả xã hội. Ba là, sự thiếu hụt hay bất cân xứng về thông tin có thể làm cho các giao dịch thị trường không được thực hiện. Chẳng hạn như dịch vụ dự báo thời tiết, thông tin về môi trường và sức khỏe....

Trong những trường hợp này thị trường cần được cung cấp bổ sung thông tin và không ai khác mà chính là nhà nước phải thực hiện vai trò này. Bốn là, các thị trường không hoàn hảo. Trên thực tế, một số thị trường vì các khó khăn và rủi ro trong việc thu thập thông tin và quản lý đã không thể có đủ hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu xã hội. Và trong điều kiện này sự can thiệp của nhà nước là cần thiết để thúc đẩy và duy trì sự sáng tạo của nền kinh tế. Năm là, cung cấp dịch vụ công ích. Thông thường các dịch vụ công không thể cá nhân hóa, ví như dịch vụ cứu hỏa, trật tự xã hội, hệ thống công viên... Chính vì vậy thị trường không thể tạo ra các nhà cung cấp tư nhân cung cấp hoặc cung cấp một cách hiệu quả các dịch vụ này và thông thường nhà nước phải có vai trò chính trong việc cung cấp các dịch vụ công ích. Sáu là, sự phát triển kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến sự chênh lệch giàu nghèo hay sự bất công bằng về thu nhập. Đây chính là thuộc tính của cơ chế thị trường.

Trong trường hợp này, với chức năng của mình, nhà nước phải can thiệp vào quá trình tiếp cận cơ hội và phân phối lại cũng như cung cấp các dịch vụ bảo đảm an sinh xã hội, giảm sự phân hóa giàu nghèo. Bảy là, sự vận động của nền kinh tế thị trường, xét trên góc độ vĩ mô, theo những chu kỳ nhất định tạo nên một sự bất ổn định vĩ mô. Sản lượng lên xuống thất thường, mặc dù xét về dài hạn, nó vẫn bộc lộ một xu hướng hay tiềm năng tăng trưởng nào đó. Nền kinh tế lúc phải chịu tỷ lệ lạm phát cao, lúc lại rơi vào suy thoái với tỷ lệ thất nghiệp cao. Điều đó tạo ra sự bấp bênh và rủi ro đối với cuộc sống của nhiều người trong xã hội. Tính mất ổn định vĩ mô đó cũng là một trong những khiếm khuyết của thị trường, mà tự bản thân thị trường không khắc phục được.

Để khắc phục những thất bại này, không thể thiếu vai trò của nhà nước. Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để tạo cơ hội, môi trường cho sự vận hành bình thường của thị trường đáp ứng yêu cầu xã hội. Nói cách khác, không thể có thị trường tự do thuần túy, để một thị trường vận hành hiệu quả cần có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước can thiệp, cộng sinh với thị trường để hiệu chỉnh, khắc phục khiếm khuyết của các thị trường, chứ không phải để thay thế thị trường.

Một điều cũng cần thấy là, trong xã hội hiện đại, sự can thiệp của nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế thị trường, khắc phục các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và mở rộng nền dân chủ cũng chính là nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt nhà nước trong một nền dân chủ là công cụ có thể làm giảm phần lớn những tác động tiêu cực của hệ thống thị trường, trong khi vẫn duy trì được quyền sở hữu và quyền tự do.

Nói cách khác, chính hệ thống chính trị dân chủ có thể đóng góp hiệu quả nhất vào hoạt động của nền kinh tế thị trường. Và, cho dù nhà nước có vai trò quan trọng, không thể thiếu được trong phát triển nền kinh tế, song điều đó không có nghĩa là nhà nước có thể bao biện, làm thay cho tất cả các hoạt động thị trường. Nhà nước chỉ nên chú trọng tới những lĩnh vực mà thị trường không thể làm được, hoặc mức độ làm được không thể hoàn hảo bằng sự can thiệp của nhà nước. Mở rộng sự can thiệp quá mức, trong nhiều trường hợp bản thân nhà nước cũng gặp thất bại.

Thứ ba, từ những thất bại của nhà nước trong thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội.

Việc can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế - xã hội là tất yếu với mục đích chung là tạo ra sự phát triển. Tuy nhiên, trong không ít trường hợp, sự can thiệp của nhà nước cũng không đạt được hiệu quả mong muốn. Chúng ta đã chứng kiến sự “giằng co” trong quan điểm cũng như trong thực tiễn về vai trò can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 và sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ hai, quan điểm về vai trò của nhà nước đã có sự chuyển đổi từ việc cổ vũ cho việc nhà nước ít can thiệp sang mở rộng vai trò của nhà nước. Cho đến những năm 60 của thế kỷ XX, nhà nước đã thực sự can dự vào mọi phương diện của nền kinh tế, quản lý giá cả và điều chỉnh ở mức độ ngày càng tăng lao động, các thị trường hối đoái và tài chính(1).

Chính sự tham gia ở mức độ cao của nhà nước vào các hoạt động của thị trường đã làm méo mó các quan hệ thị trường. Cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1973 và cuộc khủng hoảng nợ những năm 80 là minh chứng cho sự thiếu hiệu quả của việc nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế. Nói cách khác, điều này phản ánh sự thất bại của các chính sách can thiệp quá mức của nhà nước vào các hoạt động của thị trường.

Sự khủng hoảng và đổ vỡ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 cũng là một minh chứng cho thất bại của nhà nước trong quản lý, điều hành nền kinh tế. Với sự phát triển dựa trên kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, không chấp nhận vai trò thị trường, đã dẫn đến sự phân bổ nguồn lực không hợp lý, lãng phí, thất thoát, triệt tiêu động lực tăng trưởng.

Sự thất bại của nhà nước có nhiều lý do, trong đó có những lý do gắn liền với hoạt động của nhà nước. Đó là, bản thân nhà nước không thể nhanh nhạy như thị trường mà thường xuyên thiếu thông tin; nhà nước chỉ có thể kiểm soát hạn chế đối với những phản ứng của tư nhân cũng như kiểm soát hạn chế đối với bộ máy hành chính quan liêu. Bên cạnh đó là những hạn chế do các quá trình chính trị áp đặt...

Thực tế phát triển cho thấy, sự can thiệp quá mức cũng như việc xóa bỏ thị trường đều không thể thành công trong phát triển kinh tế - xã hội. Các quốc gia tư bản phát triển phương Tây đã phải điều chỉnh chiến lược, thực hiện phát triển nền kinh tế hỗn hợp mà ở đó cả nhà nước lẫn thị trường đều được coi trọng. Các nước vốn trước đây phát triển theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp cũng đã có chuyển đổi sang phát triển nền kinh tế hỗn hợp, khôi phục và phát triển thị trường, trả lại chức năng vốn có của thị trường.

Sự thất bại của nhà nước trong trường hợp can thiệp quá mức hay xóa bỏ vai trò thị trường cho thấy, không thể phát triển khi thiếu vắng sự can thiệp của nhà nước, cũng như không thể phát triển nếu thiếu vắng thị trường, để phát triển đòi hỏi nhà nước và thị trường cần tương tác, hỗ trợ nhau, khắc phục các khiếm khuyết. Như vậy có thể thấy mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường xuất phát từ chính nhu cầu của nhà nước và nhu cầu thị trường, đó là mối quan hệ tất yếu, tương tác phụ thuộc nhau.

Biểu hiện kết quả của sự tương tác giữa nhà nước và thị trường là sự phát triển của kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Việc xử lý mối quan hệ này được biểu hiện tập trung ở hệ thống thể chế phát triển. Vấn đề là ở chỗ, việc hình thành các nguyên tắc, các quy định, luật để tạo cơ chế cho sự vận hành mối quan hệ này phải hợp lý, phù hợp với các giai đoạn phát triển, với năng lực của từng thành tố.

Một nền kinh tế thị trường phát triển là nền kinh tế có hệ thống thể chế phát triển đồng bộ. Hệ thống thể chế đó mở ra cơ hội và phương cách cho nhà nước và thị trường phát huy năng lực, khắc phục hiệu quả các khiếm khuyết của thị trường cũng như của nhà nước. Chính vì vậy, một nội dung rất quan trọng trong xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường là phải thể chế hóa vị trí, vai trò của nhà nước và thị trường cũng như mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

Khi đề cập đến quan hệ giữa nhà nước và thị trường đòi hỏi cần nhận diện và phân vai giữa chúng trong quá trình vận động của mối quan hệ. Nhà nước cũng như thị trường có chức năng của mình, song các chức năng của nhà nước và thị trường có sự biến đổi cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh.

Vấn đề là tùy theo năng lực của nhà nước và sự phát triển của thị trường, cũng như tùy theo quan điểm phát triển của mỗi quốc gia mà xác định, phân vai cho phù hợp. Tính phù hợp này được đo bằng hiệu quả của sự tăng trưởng và nó không có ngưỡng chung cho mọi nền kinh tế. Chính vì vậy, nhà nước, với tư cách chủ thể trong mối quan hệ, cần xuất phát từ mục tiêu tăng trưởng, thực trạng năng lực của nhà nước và trình độ phát triển của thị trường mà lựa chọn sự phân vai tương xứng.

Các nguyên tắc xử lý

Thứ nhất, xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường phải trên cơ sở lợi ích quốc gia là tối thượng và bảo đảm hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế - xã hội.

Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường là một trong những mối quan hệ lớn. Giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy yêu cầu đặt ra trong xử lý quan hệ này là làm sao khai thác được sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, từ nguồn lực nhà nước, nguồn lực thị trường và nguồn lực bên trong, bên ngoài. Phải tạo ra được tổng hợp lực giữa các nguồn lực để phát triển.

Đương nhiên trong quá trình xử lý sẽ phải giải quyết mâu thuẫn lợi ích, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà nước và thị trường. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khó lượng định thì về nguyên tắc phải đặt lợi ích chung của quốc gia, dân tộc lên trên hết. Lợi ích quốc gia là tối thượng, là mục tiêu, nhà nước cần vận dụng các công cụ, thông qua phương tiện là cơ chế thị trường, dựa trên điều kiện xã hội đồng thuận để hướng đến mục tiêu đã xác định.

Lợi ích quốc gia - dân tộc của chúng ta là: “Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu mạnh, hùng cường của đất nước, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân”(2). Giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường phải hướng đến hiện thực hóa mục tiêu này. Nhà nước phải hoàn thiện, nâng tầm điều hành hiệu quả, phải trở thành nhà nước liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân. Thị trường phải lành mạnh, khai thác và phân bổ hiệu quả các nguồn lực cho hiện thực hóa mục tiêu. Tránh những thiên kiến, hay vì lợi ích cục bộ trong xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

Nhìn lại lịch sử phát triển kinh tế thị trường, việc lựa chọn nhà nước hay thị trường là gắn với hiệu quả tăng trưởng. Đã có những thất bại do thiên về nhà nước hoặc thiên về thị trường. Trong những năm gần đây giới nghiên cứu ít nói về nhà nước nhiều hay nhà nước ít, cũng như thị trường nhiều hay thị trường ít. Sự chú ý được thiên về hướng: thị trường hay nhà nước sẽ hiệu quả. Và trên thực tế vận hành của các nền kinh tế cũng như trong xử lý mối quan hệ này, hiệu quả của sự tăng trưởng kinh tế là thước đo đánh giá cho sự lựa chọn nhà nước hay thị trường.

Quan điểm về sự phát triển hiện nay là hướng đến phát triển bền vững, nghĩa rằng không chỉ chú ý đến tốc độ tăng trưởng cao, mà đi liền với tăng trưởng là phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội và môi trường. Chính vì vậy xử lý vấn đề quan hệ giữa nhà nước và thị trường cũng không chỉ đơn thuần hướng đến tăng trưởng, mà đi liền với tăng trưởng phải bảo đảm được xã hội ổn định, phát triển, đời sống của người dân được cải thiện, người dân được sống trong môi trường lành mạnh, không ô nhiễm.

Thứ hai, nhà nước không can thiệp khi thị trường hoạt động hiệu quả và nhà nước chỉ làm những gì mà thị trường không thể làm hoặc làm không hiệu quả.

Kinh tế thị trường vận hành theo các quy luật khách quan, cơ chế thị trường là cơ chế huy động và khai thác hiệu quả các nguồn lực, do vậy khi thị trường đang vận hành hiệu quả, nhà nước không nên can thiệp làm méo mó thị trường. Thực tiễn đã chứng minh, nền kinh tế phi thị trường do nhà nước điều hành đã thất bại, cũng như khi nhà nước can thiệp quá mức cũng làm mất tính năng động của thị trường, giảm hiệu quả trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Nguyên tắc hoạt động của thị trường là bảo đảm sự gia tăng của lợi nhuận. Tuy nhiên trong nền kinh tế có những lĩnh vực, có những thời điểm mà hoạt động trong các các lĩnh vực đó không đem lại lợi nhuận bình quân, không kích thích tư nhân tham gia, song đó lại là những lĩnh vực bảo đảm các điều kiện cho hoạt động sản xuất nói chung cũng như bảo đảm an sinh xã hội, buộc nhà nước phải tham gia hoặc thông qua các cơ chế chính sách để điều chỉnh, tạo cơ hội cho thị trường có thể hoạt động (chẳng hạn hàng hóa công, những lĩnh vực kinh doanh mới nhiều rủi ro...).

Song, sự can thiệp của nhà nước phải dựa trên năng lực quản trị và tiềm lực kinh tế nhà nước. Đối với các nhà nước có năng lực quản trị và tiềm lực kinh tế nhà nước còn thấp, chỉ cần tập trung trước hết vào những chức năng cơ bản, cung cấp những hàng hóa công cộng thuần túy, như quyền sở hữu tài sản, sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát dịch bệnh, đường sá, nước sạch và an sinh cho người nghèo. Một khi cải thiện năng lực của nhà nước, sự can thiệp có thể hướng vào các chức năng trung gian, như quản lý những tác động ngoại lai, điều tiết độc quyền và bảo hiểm xã hội... Đối với các nhà nước có năng lực mạnh có thể thực hiện các chức năng rộng lớn hơn, chủ động, tích cực phối hợp với các thị trường, nuôi dưỡng thị trường phát triển, mở ra cơ hội để thị trường tham gia có hiệu quả vào các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Thứ ba, xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.

Quan hệ giữa nhà nước và thị trường là tất yếu trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, do bản thân các thành tố với các điều kiện lịch sử, văn hóa, chính trị không có sự phát triển tương thích, nên mối quan hệ giữa chúng là sự tương tác hỗ trợ không cân xứng. Bản thân vai trò, chức năng của chúng cũng có sự phát triển và điều chỉnh cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Bởi vậy, việc xác định cụ thể vai trò, vị trí của các thành tố ở các nền kinh tế thị trường khác nhau là không hoàn toàn giống nhau, và cũng không giống nhau ngay trong các giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi nền kinh tế.

Giải quyết tốt mối quan hệ này cần hết sức linh hoạt, năng động:

1- Trong khi các thị trường còn chưa phát triển, nhà nước cần can thiệp, tạo lập sự phát triển của thị trường thông qua các cơ chế, chính sách và chủ động tạo “dư địa” cho thị trường phát huy tác dụng. Như vậy, cùng với quá trình xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cũng cần điều chỉnh mức độ can thiệp cho phù hợp dựa trên cơ sở tiêu chí chung là hiệu quả của quá trình phát triển.

2- Xử lý quan hệ giữa nhà nước và thị trường cần toàn diện và đồng bộ, gắn với thực trạng mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và chú ý không chỉ trên phương diện sở hữu, nhằm khơi dậy, phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, mà còn cả trong khâu phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong trao đổi, giá cả phải trên cơ sở thị trường và trong phân phối phải bảo đảm nguyên tắc thị trường trong phân phối lần đầu và nhà nước can thiệp trong phân phối lại để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, giảm thiểu phân hóa giàu nghèo.

3- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước, kể cả cấp trung ương và địa phương. Sẽ không thể xử lý tốt mối quan hệ này nếu thiếu một chính phủ năng động, kiến tạo. Xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ chính là tạo ra thể chế quản trị hiệu quả, một chính phủ mạnh, một nền công vụ chuyên nghiệp, gọn nhẹ, minh bạch, vì dân. Đây chính là cơ sở để quản trị tốt nền kinh tế nói chung, xử lý tốt mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường nói riêng.

Do vậy xử lý mối quan hệ này cần phù hợp với trình độ phát triển ở từng giai đoạn ứng với năng lực thực tế và trình độ hiện có của thị trường. Không nên xác định vai trò quá lớn của nhà nước hay vai trò đầy đủ của thị trường hoặc ngược lại, khi mà chính sự phát triển của hai thành tố này trên thực tế còn hạn chế hoặc là chưa có sự phát triển tương thích.

Thứ tư, hài hòa lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong quá trình xử lý quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

Thực tiễn các nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy, trong nền kinh tế thường xuyên diễn ra mối quan hệ 3 bên: doanh nghiệp, người dân và nhà nước. Mỗi thành tố trong mối quan hệ này có chức năng, mục tiêu hoạt động khác nhau với những lợi ích khác nhau.

Đối với doanh nghiệp: với chức năng sản xuất, tạo ra hàng hóa - dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội, quá trình hoạt động của doanh nghiệp phải bảo đảm hiệu quả kinh tế, vì lợi nhuận, nên mong muốn của doanh nghiệp là lợi nhuận, là nâng cao giá trị gia tăng.

Nhà nước là cơ quan quyền lực nên sử dụng quyền lực để định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, mong muốn của mọi nhà nước là xã hội ngày càng phát triển văn minh, hiện đại dưới sự dẫn dắt và quản lý của mình.

Người dân vừa là người lao động, cung cấp các yếu tố đầu vào quan trọng cho thị trường, vừa là người tiêu dùng, nên mục tiêu của họ là có được nhiều thu nhập để bảo đảm cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Một xã hội muốn phát triển theo hướng thị trường thì cần xử lý hài hòa lợi ích giữa các thành tố nói trên. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh thị trường thì sẽ tạo ra một xã hội chỉ vì lợi nhuận mà bỏ qua tất cả những giá trị nhân văn của cuộc sống...; nếu quá nhấn mạnh đến nhà nước thì sẽ đưa nhà nước đến chỗ ôm đồm, làm tất cả dẫn đến quá sức của mình và sẽ bị “trả giá”, còn nếu chỉ quá nhấn mạnh đến lợi ích của người dân thì xã hội sẽ không có đủ của cải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân, vì tiêu dùng không thể vượt quá khả năng của cải hiện có.

Như vậy, mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân chi phối việc xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, và ngược lại trong xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường phải luôn quán triệt nguyên tắc bảo đảm lợi ích của cả 3 thành tố: nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

Thứ năm, xử lý quan hệ giữa nhà nước và thị trường phải đặt trong mối quan hệ đa chiều nhà nước - thị trường - xã hội.

Có thể nói mối quan hệ nhà nước - thị trường - xã hội là mối quan hệ bao trùm trong nền kinh tế thị trường. Trong lý thuyết kinh tế đã tồn tại các trường phái khác nhau, từ nhấn mạnh vai trò của thị trường, đến nhấn mạnh vai trò của nhà nước hay nhấn đến sự cần thiết của cả nhà nước và thị trường trong nền kinh tế hỗn hợp. Bên cạnh đó, trong các nền kinh tế thị trường phát triển, vai trò của xã hội cũng ngày được quan tâm trong việc bổ khuyết và giám sát cả thị trường và nhà nước, thậm chí sau sự thất bại của “đồng thuận Washington” không ít nền kinh tế chủ trương giảm thị trường, đẩy mạnh xã hội.

Quan hệ giữa nhà nước và thị trường diễn ra trong môi trường xã hội nhất định, nên đương nhiên chịu tác động của yếu tố môi trường xã hội. Bên cạnh nhà nước và thị trường, các yếu tố xã hội và các tổ chức xã hội luôn có tác động đến cả nhà nước và thị trường cũng như quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

Thực tế cho thấy, với phát triển mạnh có quy mô ngày càng lớn của nền sản xuất xã hội, mối quan tâm của nhà nước không thể bao phủ hết các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, cũng như đến tất cả các đối tượng trong xã hội. Và nhu cầu tất yếu đặt ra, bản thân các tổ chức xã hội phải tham gia giải quyết hoặc tác động đến nhà nước để có các giải pháp hợp lý. Trong quan hệ với nhà nước, thành tố xã hội nhìn dưới góc độ là các tổ chức xã hội sẽ tham gia quá trình hoạch định chủ trương, chính sách, là người thực hiện và giám sát quá trình thực hiện chính sách. Do vậy rất cần không gian và điều kiện cho các tổ chức xã hội phát huy vai trò của mình trong việc hỗ trợ và giám sát nhà nước.

Trong quan hệ với thị trường, các tổ chức xã hội là một bộ phận trong hệ thống chính trị thực hiện bảo vệ quyền lợi của người dân trước tác động của thị trường. Trên thực tế, sự phát triển của thị trường đã thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức xã hội, tạo điều kiện nâng cao vai trò của thành tố xã hội trong xây dựng và phát triển nền kinh tế.

Các vấn đề trong quan hệ giữa thị trường và xã hội nảy sinh khi lợi ích xã hội bị sự phát triển tự do của thị trường lấn át. Thông thường, theo chức năng, nhà nước sẽ can thiệp, giải quyết các vấn đề phát sinh, song không phải lúc nào và mọi vấn đề nhà nước đều có thể kịp thời quan tâm, giải quyết. Và thông thường xã hội cảm nhận thấy trước hết sự tác động của sự phát triển lệch chuẩn của thị trường. Chẳng hạn vấn đề ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm...

Giải quyết mối quan hệ giữa xã hội và thị trường, trước hết, chính là giải quyết mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội và doanh nghiệp nhằm tạo môi trường cho tăng trưởng, bảo đảm lợi ích không chỉ của doanh nghiệp mà còn của xã hội. Cơ chế giải quyết mối quan hệ này chính là thông qua các phong trào, ý kiến của người dân, các tổ chức xã hội buộc các doanh nghiệp phải điều chỉnh hành vi cả trong sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng.

 Hai là, gián tiếp tác động đến nhà nước để hình thành các quy định điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp cũng như thực hiện giám sát quá trình hoạt động, phản biện các chiến lược và chương trình phát triển của các doanh nghiệp. Ba là, liên kết các mạng lưới xã hội, trao đổi thông tin, khai thác các nguồn lực thực hiện tự quản, hỗ trợ các nghiệp đoàn, bảo vệ các nhóm yếu thế... Bốn là, xây dựng các doanh nghiệp xã hội, thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội phi lợi nhuận, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Năm là, thực hiện vai trò hỗ trợ nhà nước và hỗ trợ thị trường trong xử lý quan hệ tương tác giữa nhà nước và thị trường (chẳng hạn nắm thông tin thị trường, phản ánh cho nhà nước xử lý, hoặc hỗ trợ nhà nước, điều chỉnh thị trường). Với vai trò đó, thành tố xã hội luôn tác động trong suốt quá trình xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

Như vậy, để nền kinh tế có thể phát triển đòi hỏi không chỉ tập trung giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, mà còn phải giải quyết mối quan hệ đa chiều nhà nước  - thị trường - xã hội. Xã hội vừa hỗ trợ, vừa giám sát cả thị trường lẫn nhà nước trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình./.

---------------------------------------------------

(1) Ngân hàng Thế giới: Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 39
(2) Trương Tấn Sang: Đón bắt thời cơ, phát huy sức mạnh của toàn dân, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, đưa đất nước tiếp tục tiến lên. http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/chinh-tri-viet-nam/bao-ve-loi-ich-quoc-gia-la-muc-tieu-toi-thuong-3223166/

Vũ Văn Hà
PGS, TS, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản