Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, điều này được thể hiện thông qua các chính sách, các chương trình hành động và các dự án hỗ trợ cho người nghèo. Thành công của chính sách xóa đói, giảm nghèo của nước ta giai đoạn vừa qua đã phần nào làm giảm bớt những rủi ro và nguy cơ đói nghèo cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều cơ hội nâng cao trình độ học vấn, tiếp cận với việc làm, ổn định cuộc sống.
Suốt hơn 77 năm qua, đặc biệt là sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm phát triển kinh tế gắn với giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội. Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi, chiếm 3/4 diện tích cả nước, dân số khoảng 14,1 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Việt Nam là một trong những điểm sáng của thế giới về xóa đói, giảm nghèo.
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Ngay từ khi thành lập nước, công tác xóa đói giảm nghèo đã được xác định là nền tảng quan trọng, không chỉ góp phần cải thiện đời sống nhân dân mà còn đóng vai trò then chốt trong xây dựng nông thôn mới, đặc biệt tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với tầm nhìn chiến lược, Đảng và Nhà nước đã triển khai hàng loạt chương trình mục tiêu quốc gia nhằm giải quyết vấn đề này trên cả phương diện trước mắt lẫn lâu dài. Trong số đó, nổi bật là các chương trình như: Chương trình 135, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn; Chương trình 134, đảm bảo đất sản xuất, nhà ở và nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số; Chương trình 30A, giảm nghèo bền vững tại 61 huyện nghèo; và Chương trình 975, cấp miễn phí báo chí để nâng cao dân trí. Đặc biệt, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo đã mở ra cách tiếp cận mới, lồng ghép mục tiêu kinh tế với phát triển xã hội. Tiếp nối, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 khẳng định quyết tâm của Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển bền vững, cải thiện toàn diện đời sống người dân, hướng tới sự phát triển cân bằng và công bằng trên mọi miền đất nước.

Ảnh minh họa - TL
Ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 135/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135). Chương trình 135 có mục tiêu tổng quát: “Nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước; góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng”. Theo Quyết định 135/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ đã phê chuẩn, giao cho Bộ Quốc phòng tham gia phát triển kinh tế, xây dựng các vùng (khu) kinh tế mới, giúp dân xoá đói, giảm nghèo cho đồng bào ở những vùng đất còn hoang hoá, các xã đặc biệt khó khăn nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Ngày 19/3/2021, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 22/2021/NĐ-CP về khu kinh tế - quốc phòng, trong đó quy định Quân đội tiếp tục xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển đảo. Mục tiêu là tiếp tục giúp dân xóa đói, giảm nghèo bền vững; củng cố quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược để hình thành thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, tạo vành đai vững chắc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Theo đó, các đơn vị Quân đội tham gia phát triển kinh tế - xã hội phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu để Nhân dân ổn định sản xuất, đảm bảo an sinh xã hội; tổ chức, bố trí sắp xếp các điểm dân cư, định canh, định cư trên địa bàn biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, các đảo, quần đảo xa bờ bảo đảm mục tiêu giảm nghèo bền vững và ổn định quốc phòng, an ninh. Xây dựng các mô hình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và hỗ trợ phát triển sản xuất tạo yếu tố ban đầu cho phát triển kinh tế hàng hóa, dịch vụ; tổ chức dịch vụ cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm (dịch vụ hai đầu); chuyển giao công nghệ sản xuất cho Nhân dân; tổ chức sản xuất khai thác hiệu quả đất đai đối với những địa bàn biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn có vai trò quan trọng về quốc phòng, an ninh. Xây dựng cơ sở kinh tế ở những vùng biển, đảo khó khăn làm cầu nối giữa đất liền và đảo, quần đảo; tổ chức các hoạt động dịch vụ trên biển hỗ trợ ngư dân bám biển sản xuất để tăng cường hoạt động dân sự trên các vùng biển, đảo khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và tài phán trên biển.
Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030. Trước hết, phải tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2021 - 2025 và những năm tiếp theo với nội dung là sự tiếp tục và mở rộng các chương trình xóa đói, giảm nghèo, kể cả chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện, xã, thôn bản nghèo. Cấp ủy, tổ chức Đảng, Mặt trận và chính quyền các cấp, các ngành phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình, coi đây là nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị mình; chỉ đạo xây dựng kế hoạch thực hiện Chương trình một cách tích cực, khoa học, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan, ban, ngành và các tổ chức chính trị - xã hội có liên quan.
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 được Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết số 24/2021/QH15 ngày 28/7/2021 đã xác định: “Thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn”. Quyết định số 36/2021/QĐ-TTg ngày 13/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về tiêu chí huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2021 – 2025; Quyết định số 880/2022/QĐ-TTg ngày 22/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt một số nội dung hỗ trợ 22 huyện nghèo thuộc 17 tỉnh thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn giai đoạn 2022 – 2025.
Ngày 19/01/2023, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Quyết định số 71/QĐ-LĐTBXH về công bố kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025 trên phạm vi toàn quốc. Cụ thể, tỷ lệ nghèo đa chiều (gồm tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo) toàn quốc là 7,52% (trong đó, tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo đa chiều là 1.972.767 hộ). Tại huyện nghèo theo Quyết định số 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021 – 2025, tỷ lệ nghèo đa chiều là 55,45% (tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo là 538.737 hộ). Cũng tại các địa bàn này, tỷ lệ hộ nghèo là 38,62% (tổng số hộ nghèo là 375.141 hộ). Tỷ lệ hộ cận nghèo là 16,84% (tổng số hộ cận nghèo là 163.596 hộ)1.
Các chính sách, các chương trình hành động và các dự án hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta khá toàn diện, bao trùm lên hầu hết các khía cạnh trong đời sống xã hội, từ xây dựng cơ sở hạ tầng cho đến nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Các hình thức tiếp cận và hình thức hỗ trợ nhằm giảm nghèo cũng đa dạng và nhiều chiều. Hơn nữa, trong những năm qua, với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và người dân, công tác giảm nghèo của cả nước đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ giảm nghèo được ban hành, triển khai có hiệu quả. Tập trung mọi nguồn lực, thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách, vận động xã hội hóa chăm lo cho người nghèo, góp phần giải quyết kịp thời những vấn đề cơ bản, bức xúc đối với người nghèo; nhất là, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, nhân rộng mô hình giảm nghèo, hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển kinh tế, giúp hộ nghèo ổn định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo bền vững.
Thành tựu nổi bật trong công tác xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn 2021 – 2025
Hiện nay, Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia duy nhất ở châu Á thực hiện chương trình giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Trong “Báo cáo nghèo đa chiều 2021” được Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội công bố tháng 7/2022, có nêu: Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 58,1%, đến cuối năm 2021 giảm còn 2,23%. Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói, giảm nghèo.
Điều đáng lưu ý là, con số 58,1% hộ nghèo của cả nước năm 1993 được xác lập từ tiêu chí duy nhất là thu nhập. Còn 2,23% hộ nghèo của năm 2021 là kết quả rà soát theo bộ tiêu chí tiếp cận đa chiều, bao gồm thu nhập và các chỉ số dịch vụ xã hội cơ bản (việc làm; y tế, giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; tiếp cận thông tin).

Ảnh minh họa - TL
Chưa dừng lại ở đó, trên cơ sở đánh giá kỹ lưỡng, khoa học, cân đối giữa mục tiêu và khả năng, Chính phủ đã ban hành chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025, với những chỉ tiêu cao hơn bộ tiêu chí tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020. Không chỉ tiêu chí thu nhập được nâng lên mà chỉ số về các dịch vụ xã hội cơ cũng chặt chẽ hơn trước.
Và, mặc dù trải qua thời gian dài chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid – 19 cùng với khủng hoảng kinh tế thế giới, công tác giảm nghèo của nước ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn. Theo Báo cáo số 1611/BC-BKHĐT ngày 6/3/2024 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hết năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025 của cả nước là 2,93%, giảm 1,1% so với năm 2022.
Trong đó, tỷ lệ giảm nghèo đặc biệt ấn tượng ở các địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào DTTS. Cụ thể, hết năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn khoảng 33%, tương ứng giảm 5,62% so với cuối năm 2022. Tỷ lệ hộ nghèo là người DTTS giảm còn 17,82%, tức giảm 3,2% so với năm trước.
Để có được những thành công trong công tác giảm nghèo của cả nước nói chung và của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi nói riêng đó là nhờ vào sự quan tâm của Quốc hội, Chính phủ đã bố trí nguồn lực từ ngân sách Nhà nước và huy động nguồn lực toàn xã hội để thực hiện Chương trình giảm nghèo.
Trong giai đoạn 2021 – 2025, Chính phủ đã tổ chức quán triệt, tuyên truyền, ban hành chương trình hành động, thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025; chỉ đạo xây dựng, ban hành hệ thống khung khổ pháp lý triển khai thực hiện công tác giảm nghèo bền vững kịp thời, đầy đủ, bảo đảm tính khách quan và minh bạch như việc xây dựng các tiêu chí xác định đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn; tiêu chí hộ thoát nghèo, huyện, xã, thôn bản thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; hệ thống chỉ tiêu theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện.
Trên thực tế, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nhất là người sinh sống trên địa bàn nghèo, vùng đặc biệt khó khăn không ngừng được nâng cao. Cả nước hiện có hơn 13 nghìn dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo hiệu quả với trên hơn 3 triệu hộ hưởng lợi; nhiều lao động trên cả nước thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài. Cùng với đó, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, liên kết vùng được ưu tiên đầu tư đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều địa phương phát triển kinh tế - xã hội vươn lên thoát nghèo, ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Đến nay, cả nước có 32 huyện, 125 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo đã thoát khỏi tình trạng này; 125 xã thuộc 29 tỉnh và 1.298 thôn, buôn, làng… Hoàn thành Chương trình 135; Hàng ngàn công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư. Điều đó bảo đảm an sinh xã hội cho người dân vùng đặc biệt khó khăn được nâng lên, con người ở nơi đây ngày càng được phát triển toàn diện. Trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19, người nghèo, người yếu thế luôn được Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc quan tâm. Vào năm 2021, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 4 cấp đã vận động Quỹ “Vì người nghèo” thực hiện hỗ trợ xây dựng và sửa chữa được hơn 13.000 nhà Đại đoàn kết, giúp đỡ người nghèo các địa phương không phải thực hiện giãn cách xã hội, phát triển sản xuất và giúp các cháu học sinh phương tiện để học tập trực tuyến; hàng triệu lượt người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được khám chữa bệnh, được tiêm vắc xin phòng, chống dịch Covid-19, v.v. Thành quả đó được nhân dân cả nước ghi nhận, cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những thành công nổi bật, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.
Cùng với sự phát triển của xã hội, chất lượng bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam không ngừng được nâng lên thông qua áp dụng chuẩn nghèo mới. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững và đảm bảo quyền an sinh xã hội của người nghèo, Việt Nam đã ban hành chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025 với các tiêu chí xác định hộ nghèo về thu nhập và thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản được nâng lên so với giai đoạn 2016 – 2020, không chỉ đảm bảo thu nhập tối thiểu mà còn hỗ trợ cải thiện mức độ tiếp cận của người nghèo đối với các dịch vụ xã hội cơ bản về việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin. Chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025 đảm bảo quyền an sinh xã hội của người nghèo được toàn diện hơn.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo trong thời gian tới
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong thực hiện công tác giảm nghèo giai đoạn 2021 - 2025, Việt Nam cũng đồng thời tập trung đẩy mạnh giải quyết một số thách thức. Đó là, một, tiếp tục triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 160/NQ-CP ngày 23/6/2021 của Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XIII) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030. Xây dựng, triển khai hệ thống quản lý Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, liên thông dữ liệu vào cơ sở dữ liệu hệ thống giám sát, đánh giá chương trình mục tiêu quốc gia… Đồng thời, triển khai đồng bộ các giải pháp huy động, bổ sung nguồn lực thực hiện các chương trình mục tiêu.
Cần tiếp tục thực hiện chính sách bảo trợ xã hội đối với hộ nghèo không có khả năng lao động để đầu tư nguồn lực có trọng tâm, trọng điểm, đúng đối tượng, thực hiện hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững; giảm tối đa tỷ lệ tái nghèo; nghiên cứu mở rộng đối tượng, phạm vi thực hiện chính sách tín dụng xã hội (ưu đãi vay vốn sản xuất – kinh doanh, giải quyết việc làm) đối với các hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình làm nông, lâm, ngư nghiệp… Những cơ chế, yêu cầu mới, như: Lồng ghép chính sách, tích hợp nguồn lực giữa các Chương trình mục tiêu quốc gia; Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương; Cơ chế đặc thù trong quản lý, triển khai các công trình, dự án; Đầu tư trọng tâm, trọng điểm, bền vững; Cải cách thủ tục hành chính; Xây dựng tiêu chí khuyến khích cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng về thoát nghèo, giảm nghèo bền vững cần được tiếp tục nghiên cứu, rà soát để thể chế hóa, cụ thể hóa nâng cao tính khả thi, sát thực tiễn, đặc thù vùng, miền, dân tộc.
Hai là, chú trọng khơi dậy, phát huy tinh thần nỗ lực, tự lực vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo và cộng đồng; bảo đảm công khai, dân chủ, phát huy quyền làm chủ của người dân một cách thực chất trong triển khai các hoạt động. Bên cạnh đó, cần tập trung tuyên truyền, vận động, phổ biến, nâng cao nhận thức cho người dân có ý thức vươn lên thoát nghèo, khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Ba là, sớm có giải pháp thúc đẩy việc bố trí, huy động các nguồn vốn cho Ngân hàng chính sách xã hội để mở rộng phạm vi, đối tượng thụ hưởng, nâng cao mức vốn vay, thời gian vay… phù hợp hơn với nhu cầu của người dân và bảo đảm phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tham mưu, tổng hợp, nhất là ở cấp cơ sở; biểu dương, động viên kịp thời các nhân tố tích cực, điển hình; đồng thời, xử lý nghiêm khắc với các biểu hiện vô cảm, né tránh, thiếu trách nhiệm trong công việc; không để xảy ra tiêu cực, tham nhũng trong thực hiện.
Năm là, thực hiện tốt nhiệm vụ rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm; hoàn thiện cơ sở dữ liệu về công tác giảm nghèo và thống nhất từ tỉnh, huyện, xã; chú trọng các giải pháp cải thiện các chiều thiếu hụt về dịch vụ xã hội phát triển sinh kế tăng thu nhập, cải thiện đời sống của hộ nghèo, hộ cận nghèo. Rà soát xác định số hộ nghèo không có khả năng lao động, số hộ nghèo, hộ cận nghèo có đối tượng là người có công với cách mạng và có giải pháp hỗ trợ kịp thời.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các nhiệm vụ, cải tiến phương thức tiếp cận giảm nghèo theo chuẩn đa chiều, có giải pháp mạnh mẽ trong việc cải thiện các chiều thiếu hụt đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa bàn. Chú trọng nhân rộng các mô hình sinh kế giảm nghèo hiệu quả, đồng thời phát huy sự tham gia của người dân và cộng đồng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số nhằm lan tỏa những kinh nghiệm hay những bài học quý giữa các địa phương.
Hành trình xóa đói giảm nghèo ở miền núi Việt Nam là biểu tượng cho sức mạnh nội lực và tinh thần vươn lên của đồng bào các dân tộc. Những chính sách đúng đắn, kết hợp với nỗ lực tự thân của người dân, đã tạo nên những thay đổi sâu sắc, đưa miền núi thoát khỏi đói nghèo và tiến tới phát triển bền vững. Đây không chỉ là câu chuyện của sự hỗ trợ từ Nhà nước, mà còn là minh chứng cho khát vọng thay đổi vận mệnh, mở ra một tương lai tươi sáng cho những vùng đất từng lùi sâu trong khó khăn.
TS Ngô Huy Khái