1. Những yêu cầu đối với xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”(1). Quan điểm trên được thể hiện xuyên suốt, có tính nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, do đó, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân là một trong những định hướng (mục tiêu) nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân là nền hành chính vì lợi ích của nhân dân, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân... làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(2). Do vậy, việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân cần đáp ứng các yêu cầu:
Thứ nhất, hệ thống thể chế hành chính nhà nước cần được xây dựng, ban hành vì nhân dân, lấy người dân làm trung tâm.
Thể chế hành chính nhà nước quy định tổ chức, hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; là cơ sở pháp lý thực hiện chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm sự phát triển xã hội, duy trì trật tự kỷ cương chung... Do đó, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế hành chính nhà nước đòi hỏi tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực; gắn hoàn thiện thể chế với nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức và toàn xã hội... Theo đó, phải bảo đảm các nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch... thu hút sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân vào hoạt động xây dựng thể chế; thể chế phải phản ánh được ý chí, tâm tư nguyện vọng của người dân; giải quyết những vấn đề bức xúc trong dân.
Thứ hai, hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải được tổ chức tinh gọn, hoạt động hiệu quả vì nhân dân.
Cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước được xác lập theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, cụ thể hóa tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước bảo đảm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; tinh gọn, năng động, hiệu lực, hiệu quả...; bảo đảm minh bạch, hiện đại hóa; bảo đảm thực hiện một nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục, dân chủ, hiện đại, phục vụ nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân(3).
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức phải “có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”(4).
Yêu cầu trên thể hiện trong các quy định pháp luật về cán bộ, công chức, đòi hỏi trong thực thi công vụ phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; “tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân; liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân...”(5). Trong giao tiếp với nhân dân, cán bộ, công chức phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc; khi thi hành công vụ, không hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân.
Thứ tư, bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức. Xuất phát từ phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đòi hỏi mọi thông tin ngay từ khi xây dựng, ban hành thể chế, đến tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục và kết quả giải quyết công việc của đội ngũ cán bộ, công chức đều phải công khai, minh bạch. Qua đó, vừa bảo đảm quyền được biết thông tin, vừa bảo đảm quyền giám sát của người dân đối với cơ quan hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức trong hoạt động thực thi công vụ. Ngoài ra, trách nhiệm giải trình của hệ thống hành chính nhà nước thể hiện trong việc thông tin cho người dân biết về các quyết định, cũng như trách nhiệm về các quyết định đó.
Thứ năm, ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, qua đó, nâng cao chất lượng phục vụ người dân; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ xác định mục tiêu “bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020” và trọng tâm là “nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công”. Thông qua kết quả đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan này sẽ nhận biết các yêu cầu, mong muốn của người dân, tổ chức, từ đó có giải pháp nâng cao chất lượng phục vụ và cung ứng dịch vụ cho người dân, tổ chức(6).
2. Thực tiễn xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020
Những kết quả đạt được
Thứ nhất, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế hành chính nhà nước đã được các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương quan tâm, chỉ đạo và đạt được những kết quả nhất định.
Thể chế về các lĩnh vực trong đời sống xã hội tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện. Tính từ năm 2012 đến 2020, tổng số văn bản quy phạm pháp luật do các bộ ban hành là hơn 8.600 văn bản; mỗi năm các bộ trình Chính phủ ban hành hơn 140 nghị định hướng dẫn, đã thiết lập khuôn khổ thể chế cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(7), qua đó tạo thuận lợi hơn cho người dân; đồng thời tạo lập cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Đặc biệt, thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân tiếp tục được hoàn thiện, bảo đảm quyền, nghĩa vụ của người dân khi tham gia xây dựng Nhà nước. Tính từ năm 2014 đến hết tháng 6.2019, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới hơn 100 văn bản luật, pháp lệnh liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phù hợp với Hiến pháp năm 2013(8).
Thứ hai, hệ thống hành chính nhà nước được sắp xếp theo hướng bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Việc phân cấp, phân quyền rõ nét hơn theo hướng phân công theo ngành, lĩnh vực cho các bộ, ngành chủ trì và chịu trách nhiệm; đồng thời bảo đảm sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Kết quả triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cho thấy đã giảm được nhiều đầu mối bên trong các bộ, ngành và địa phương, đặc biệt giảm trên 25% đơn vị sự nghiệp, nhất là ở các địa phương đã giảm 3.980 đơn vị sự nghiệp; thực hiện tích cực việc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã (đã giảm 08/713 đơn vị hành chính cấp huyện và 557/11.160 đơn vị hành chính cấp xã; 38.369/98.455 thôn, bản, tổ dân phố, tương ứng giảm 39%)(9).
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo ngày càng chính quy; tính chủ động, trách nhiệm và tính chuyên nghiệp được nâng cao từng bước, qua đó phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Công tác quản lý cán bộ, công chức hiệu quả hơn, đã giảm cấp trung gian, giảm số lượng cán bộ lãnh đạo, giảm biên chế; cơ cấu lại, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, giảm chi phí hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động(10).
Thứ tư, Chính phủ đã từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, xây dựng Chính phủ điện tử, đô thị thông minh và khai trương Cổng dịch vụ công quốc gia vào tháng 12.2019. Do đó, tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước đã bảo đảm công khai, minh bạch, người dân tiếp cận thông tin, giám sát hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, việc xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia, góp phần hình thành cơ sở dữ liệu về dân cư, đất đai, tài chính, đăng ký doanh nghiệp... đã phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp(11).
Đặc biệt, trong năm 2020, những kết quả đã đạt được trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 là minh chứng rõ nét, với nhiều chính sách bảo vệ sức khỏe, sự an toàn, tính mạng của người dân là “trên hết” và “trước hết”, ưu tiên nguồn lực tài chính cho vắc xin, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong truy vết, khoanh vùng dịch, theo dõi sức khỏe, tư vấn, khám chữa bệnh qua hệ thống Telehealth...
Ngoài ra, từ năm 2017, Bộ Nội vụ đã triển khai toàn quốc bộ Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức về sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS). Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương đã tiến hành khảo sát sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với các dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công thuộc phạm vi quản lý. Kết quả đánh giá hàng năm đã cho thấy sự chuyển biến tích cực trong tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương, lấy người dân làm trung tâm, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Những hạn chế
Một là, về thể chế hành chính nhà nước. Vẫn còn tình trạng nợ văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh đã có hiệu lực pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của các bộ, cơ quan ngang bộ, dẫn đến gây khó khăn trong công tác tổ chức thi hành luật. Tính đến tháng 2.2021, còn 17 văn bản hướng dẫn luật chi tiết có hiệu lực thi hành vẫn chưa được ban hành; trong đó, Bộ Công an nợ 1 văn bản, Bộ Tài chính nợ 2 văn bản; Bộ Nội vụ nợ 5 văn bản, Bộ Giáo dục và Đào tạo nợ 1 văn bản; Bộ Xây dựng nợ 1 văn bản; Bộ Kế hoạch và Đầu tư nợ 4 văn bản; Bộ Tài nguyên và Môi trường nợ 2 văn bản; Bộ Thông tin và Truyền thông còn nợ 2 văn bản(12).
Hai là, hệ thống hành chính nhà nước chưa thật sự tinh gọn, hiệu quả. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; năng lực của một số địa phương chưa đáp ứng yêu cầu(13); trong khi sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương thiếu chặt chẽ; thực hiện đổi mới lề lối làm việc, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan nhà nước chưa đi vào thực chất... Công tác chỉ đạo, tổ chức thi hành pháp luật, cơ chế phối hợp giữa Chính phủ, các bộ, ngành với Ủy ban nhân dân các cấp hiệu quả chưa cao, “trong nhiều trường hợp, việc phối hợp còn tạo thêm nhiều tầng nấc trung gian, mất nhiều thời gian, tạo ra sự đùn đẩy trách nhiệm, ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng công việc”(14).
Ba là, vẫn còn một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức thiếu tính chủ động và trách nhiệm chưa cao, còn vi phạm đạo đức công chức; yếu kém về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; “Số lượng cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công vẫn còn quá lớn; phẩm chất, năng lực, uy tín còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”(15); phiền hà cho người dân, làm giảm niềm tin của người dân đối với Nhà nước.
Bốn là, việc xử lý, trao đổi thông tin trên môi trường điện tử trong nội bộ, giữa các cơ quan hành chính nhà nước chưa phát huy hiệu quả, chưa đồng bộ. Vẫn còn dịch vụ công trực tuyến được thiết kế chưa thân thiện, chưa lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, do đó, hiệu quả cung cấp dịch vụ công mức độ 3, 4 cho người dân, tổ chức chưa cao. Mặt khác, tỷ lệ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến chưa nhiều nên hoạt động của các cơ quan nhà nước vẫn chủ yếu trên giấy tờ, kết hợp điện tử, dẫn đến sự chưa thống nhất, đồng bộ trong giải quyết các thủ tục hành chính cho người dân.
Hành lang pháp lý cho triển khai Chính phủ điện tử chưa đồng bộ; sự thay đổi tư duy chuyển đổi số trong một bộ phận cán bộ, công chức còn chậm dẫn đến việc sử dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc cho người dân chưa hiệu quả.
3. Một số giải pháp xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Trong giai đoạn 2021-2030, Đảng ta định hướng: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch...”(16). Để thực hiện định hướng trên, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế hành chính nhà nước đồng bộ, hiện đại trên tất cả các lĩnh vực, trọng tâm là thể chế về tổ chức bộ máy, về quản lý cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính phủ sớm trình Quốc hội thông qua Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013); hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác trong tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước; hoàn thiện khung pháp lý là cơ sở xây dựng Chính phủ điện tử tiến tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật theo hướng khoa học, hiện đại, chuyên nghiệp. Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu trong xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực(17); tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật để phân định rõ tổ chức chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Đồng thời, thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương(18); đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, gắn kết việc xây dựng pháp luật với tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật; xác định rõ cơ chế phân công, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân và trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tổ chức thi hành pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng. Theo đó, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, bảo đảm đúng người, đúng vị trí; tiếp tục hoàn thiện chính sách thu hút nhân tài vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, đặc biệt, các cơ quan có thẩm quyền sớm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng tại Đại hội XIII về cơ chế “khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân;... bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”(19).
Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ, phát triển chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số nhằm bảo đảm hoạt động của Chính phủ hiệu lực, hiệu quả hơn và là tiền đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong hội nhập quốc tế. Một trong những mục tiêu được xác định tại Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030(20) là cung cấp dịch vụ chất lượng phục vụ xã hội, do đó, các bộ, ngành địa phương cần “phát triển các dịch vụ công trực tuyến dựa trên nhu cầu người dân và theo các sự kiện trong cuộc đời, người dân chỉ cung cấp thông tin một lần”. Do đó, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Quốc hội, Chính phủ cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về chính phủ số để bảo đảm tính thống nhất, thông suốt cho việc ứng dụng các nền tảng công nghệ trong các hoạt động của Chính phủ, lấy người dân làm trung tâm, vì nhân dân phục vụ.
__________________________________________________
(1), (2), (4), (10), (15), (16), (17), (18), (19) ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.1, tr.101, 175, 178, 75-76, 90, 176, 176, 177, 288.
(3) Xem: Điều 5 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Điều 5 Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)
(5) Điều 8 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
(6) Xem các nội dung và tiêu chí đánh giá... tại Quyết định số 2640/QĐ-BNV ngày 10.10.2017 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt Đề án đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2017 - 2020.
(7), (8), (11) Báo cáo số 128/BC-BNV ngày 19.4.2021 về Tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, tr.8, 9, 43.
(9) Phạm Thị Thanh Trà, Tiếp tục xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, https://nhandan.vn, ngày 28.4.2021.
(12) Vân Thanh, Còn 17 văn bản hướng dẫn luật chi tiết có hiệu lực thi hành vẫn chưa được ban hành, Xem: https://www.hcmcpv.org.vn/, ngày 16.2.2021.
(13) ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.2, tr.74.
(14) Xem: https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2516, truy cập 20.6.2021.
(20) Xem: Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15.6.2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử 6.5.2022