Sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực và trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, khẳng định vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam. Những đóng góp hiệu quả của Việt Nam trong các tổ chức khu vực và quốc tế ngày càng được các nước ghi nhận, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của thế giới.
Việt Nam hoàn thành thắng lợi nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (Trong ảnh: Lễ hạ quốc kỳ đánh dấu kết thúc hai năm nhiệm kỳ của năm nước là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc)
Tuân thủ các nguyên tắc, cam kết và thể chế quốc tế
Là thành viên của Liên hợp quốc (năm 1977), Việt Nam luôn ủng hộ các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đặc biệt là các nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, không đe đọa hoặc sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình, đóng góp tích cực trong giải quyết xung đột, khủng hoảng trên thế giới. Biểu hiện rõ nét là việc Việt Nam luôn chủ động và tích cực thông qua đàm phán hòa bình để giải quyết các vấn đề chủ quyền biên giới trên bộ và trên biển với các quốc gia láng giềng. Bên cạnh đó, nhằm góp phần thúc đẩy vai trò Liên hợp quốc là một thể chế đa phương toàn cầu công bằng, hiệu quả, Việt Nam tích cực tham gia xây dựng và thực thi các điều ước quốc tế của Liên hợp quốc. Năm 2017, Việt Nam là một trong 52 nước đầu tiên ký kết Hiệp ước Cấm vũ khí hạt nhân và năm 2018 là nước thứ 10 phê chuẩn Hiệp ước này. Điều này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với trách nhiệm chống phổ biến vũ khí hạt nhân, góp phần gìn giữ hòa bình trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người; cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo Tuyên ngôn nhân quyền và các công ước quốc tế. Bên cạnh đó, để góp phần thực hiện tốt hơn nữa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, bảo vệ nhân dân, Chính phủ còn chủ động điều chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật cho phù hợp với quá trình triển khai thực hiện các cam kết. Việt Nam đã rất thành công khi đảm nhiệm vị trí, vai trò là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam đã nhận định: “Với chủ trương phát triển lấy con người làm trung tâm, ưu tiên phát triển con người và thúc đẩy bình đẳng trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Việt Nam đạt được mức phát triển con người cao. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận và cũng tạo cơ hội cho sự phát triển tốt hơn, nhanh hơn trong giai đoạn tới”(1).
Sau 26 năm gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam luôn tuân thủ sáu nguyên tắc chính được nêu trong Hiệp ước Thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC): Một là, cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia; hai là, quyền của mọi quốc gia được tồn tại mà không có sự can thiệp, lật đổ hoặc áp bức của bên ngoài; ba là, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bốn là, giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; năm là, từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực; sáu là, hợp tác với nhau một cách có hiệu quả(2).
Khi tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam luôn tuân thủ Bộ Quy tắc thương mại toàn cầu và giảm thiểu các rào cản thương mại quốc tế, thực hiện đầy đủ các quy định mang tính ràng buộc của WTO, như các cam kết về thuế quan, tài chính, mở cửa thị trường hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó còn có các cam kết tài chính khác, như định giá trị hải quan, chính sách giá, chính sách trợ cấp, chính sách phí và lệ phí. Các cơ quan nhà nước đã tiến hành rà soát, sửa đổi nhiều luật cũng như các văn bản dưới luật, như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ… để hệ thống pháp luật của Việt Nam phù hợp với các quy tắc pháp lý của WTO. Việc tuân thủ các quy định trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển, có mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp là sự thể hiện nỗ lực cao của Việt Nam trong thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm đối với các cam kết quốc tế. Bởi, bên cạnh những cơ hội trong hội nhập quốc tế, việc tuân thủ các cam kết tạo ra sức ép lớn đối với nền kinh tế, đòi hỏi vượt lên sự cạnh tranh không chỉ ở tầng cấp sản phẩm, doanh nghiệp mà cả trên bình diện quốc gia.
Xử lý hài hòa giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế
Trong bối cảnh cạnh tranh giữa các cường quốc diễn ra ngày càng gay gắt, các quốc gia vừa và nhỏ đều nhận thấy lợi ích quốc gia - dân tộc sẽ chỉ được bảo đảm khi lợi ích chung của cộng đồng quốc tế được bảo đảm dựa trên luật lệ quốc tế và chủ nghĩa đa phương. Bên cạnh đó, phải nhìn nhận rõ hơn về tầm quan trọng của lợi ích quốc tế, bởi khi các quốc gia có những lợi ích chung mới có thể cùng nhau hợp tác, xử lý và giải quyết những vấn đề xung đột lợi ích. Để xử lý hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã xây dựng, củng cố các hợp tác song phương và đa phương; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình hội nhập quốc tế.
Với vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), lần đầu tiên có sự tham gia của lãnh đạo quan chức quốc phòng cấp cao của các nước lớn (như Mỹ, Nga, Trung Quốc…), giúp tăng cường giải quyết các thách thức an ninh khu vực. Việt Nam đã cùng với các quốc gia khu vực phối hợp thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), làm cơ sở để giải quyết các vấn đề trên biển, góp phần vào ổn định chung của khu vực. Việt Nam chủ động thúc đẩy hợp tác phát triển Tiểu vùng sông Mekong theo hướng toàn diện với các đối tác Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ…, giúp các nước tại Tiểu vùng sông Mekong tiếp cận với các nguồn lực và hỗ trợ cần thiết. Năm 2020, đảm nhận trọng trách Chủ tịch ASEAN, một trong năm ưu tiên thúc đẩy mà Việt Nam lựa chọn là duy trì môi trường hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực trên cơ sở tăng cường đoàn kết, thống nhất ASEAN; đẩy mạnh tinh thần gắn bó, tương trợ và ủng hộ lẫn nhau giữa các thành viên. Với vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, Việt Nam đã cùng các nước thành viên khéo léo xử lý những khác biệt nảy sinh, giải quyết các tranh chấp trong khu vực bằng biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, phù hợp với các thỏa thuận giữa hai nước và luật pháp quốc tế, tránh xung đột vũ trang và ảnh hưởng tới sự đoàn kết của ASEAN. Đối với vấn đề hạt nhân trong khu vực, Việt Nam bày tỏ quan điểm tôn trọng quyền sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình của các quốc gia, song cũng mong muốn ngăn ngừa việc phổ biến vũ khí hạt nhân. Quan điểm của Việt Nam trong việc giải quyết quan hệ giữa các nước đều dựa trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, đề cao vai trò của các tổ chức khu vực, đề cao vai trò trung gian, hòa giải.
Với vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, Việt Nam đã ghi rõ “dấu ấn” trong việc nhấn mạnh đến lợi ích chung của khu vực và toàn cầu về duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Tháng 1-2020, Việt Nam đã chủ trì thảo luận mở về “Thúc đẩy tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc trong duy trì hòa bình và an ninh quốc tế” với sự tham gia của 111 diễn giả đến từ 106 quốc gia, là phiên thảo luận với số diễn giả tham gia đông kỷ lục; lần đầu tiên tổ chức diễn đàn trao đổi “Hợp tác giữa Liên hợp quốc và ASEAN”. Thông qua sự kiện này, cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao vai trò của Việt Nam trong việc góp phần thúc đẩy, đề cao sự đoàn kết và tăng cường kết nối giữa ASEAN với Liên hợp quốc. Điều này cũng thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc duy trì, thúc đẩy các lợi ích chung toàn cầu. Có thể thấy rằng, những đóng góp của Việt Nam thời gian vừa qua càng góp phần nâng cao hơn nữa vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế, tạo cơ sở thuận lợi để chúng ta tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Đóng góp nhiều sáng kiến trong khuôn khổ hợp tác quốc tế và khu vực
Với vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc năm 2020, Việt Nam đã có sáng kiến tổ chức hai sự kiện quan trọng và tạo dấu ấn mạnh mẽ đối với cộng đồng quốc tế, đó là “Thảo luận mở của Hội đồng Bảo an với chủ đề Thúc đẩy tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc trong duy trì hòa bình và an ninh quốc tế” và “Phiên họp về hợp tác giữa Liên hợp quốc và ASEAN”. Đây là lần đầu tiên các chủ đề này được thảo luận tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Một trong những sáng kiến đáng chú ý khác của Việt Nam tại Hội đồng Bảo an thời gian qua chính là đề xuất và thúc đẩy thông qua Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc về Ngày Quốc tế sẵn sàng chống dịch bệnh 27-12 hằng năm với số lượng nước đồng bảo trợ đạt kỷ lục (112 quốc gia). Bên cạnh đó, Việt Nam đã có những sáng kiến góp phần đề cao vai trò, hợp tác và sự hiện diện của ASEAN tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Với vai trò Chủ tịch Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) năm 2001, Việt Nam triển khai Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, hỗ trợ thành viên mới hội nhập khu vực. Khi tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN, Việt Nam đưa ra Sáng kiến về xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC). Trong vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ sáng kiến đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) cao nhất trong ASEAN. Trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM hẹp) lần thứ 26, với vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đưa ra 12 đề xuất và đã được thông qua về các sáng kiến, ưu tiên hợp tác kinh tế, tập trung vào các lĩnh vực, như thương mại điện tử, thương mại hàng hóa, năng lượng, công nghệ thông tin, nông nghiệp, phát triển bền vững, tài chính, thống kê, đổi mới sáng tạo… Trong đó, nổi bật là sáng kiến xây dựng Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2025, được các nước thành viên ASEAN đánh giá cao bởi ý nghĩa và tầm quan trọng của việc kịp thời triển khai các định hướng phát triển cho ASEAN trong tương lai. Bên cạnh đó, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, với vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam đã lựa chọn chủ đề “Gắn kết và chủ động thích ứng”; thúc đẩy nhiều sáng kiến quan trọng như Quỹ ASEAN ứng phó COVID-19 để tiếp nhận những nguồn hỗ trợ cho hoạt động phòng, chống dịch của cả khu vực và tổ chức nhiều hội nghị cấp cao nhằm đưa ASEAN vượt qua đại dịch. Trước những thách thức của đại dịch COVID-19, Việt Nam chủ động dẫn dắt các hoạt động của ASEAN theo phương thức hoạt động mới - “ngoại giao số” và đã đạt được nhiều thành công. Có thể thấy, những sáng kiến được đưa ra trong giai đoạn khó khăn này đã làm nổi bật vai trò tích cực, nòng cốt, những nỗ lực của Việt Nam trong việc củng cố, tăng cường đoàn kết và giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN, góp phần nâng cao vị thế của ASEAN trong khu vực và trên thế giới.
Trong quá trình tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), những sáng kiến nổi bật mà Việt Nam đề xuất có thể kể đến, như sáng kiến “Hội thảo ASEM về tuyến đường sắt tơ lụa Á - Âu” (thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Á - Âu lần thứ 6 vào tháng 4-2004) mà Việt Nam đồng sáng kiến với Hàn Quốc và một số nước ASEM khác. Tại ASEM 7, Việt Nam đưa ra sáng kiến về “Phối hợp các hoạt động văn hóa nhằm tăng cường quảng bá hình ảnh ASEM”. Việt Nam cũng là nước đầu tiên đưa ra sáng kiến hợp tác y tế trong ASEM vào năm 1999 về “Kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng”. Bên cạnh đó, Việt Nam còn đưa ra sáng kiến về “Xử lý bệnh dịch bùng phát trong cộng đồng” (đồng sáng kiến với Trung Quốc năm 2003).
Giai đoạn đảm nhiệm vai trò chủ nhà Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC, năm 2017), Việt Nam là một trong những thành viên chủ động đề xuất và tham gia triển khai thành công trên 80 sáng kiến ở hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kỹ thuật, y tế, đối phó với chủ nghĩa khủng bố.
Góp phần giải quyết các vấn đề khu vực và thế giới
Trong nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2008 - 2009, Việt Nam đóng vai trò tích cực và xây dựng tại các cuộc họp, tham vấn và xem xét các quyết định trên nhiều vấn đề liên quan đến xung đột tại các khu vực, tái thiết hậu xung đột, khủng bố quốc tế, kiểm điểm các biện pháp trừng phạt, các hoạt động gìn giữ hòa bình và nâng cao tính minh bạch của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Khi đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, Việt Nam đã chủ trì phiên thảo luận mở cấp cao với chủ đề “Tăng cường hợp tác giữa Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực trong thúc đẩy lòng tin và đối thoại trong ngăn ngừa và giải quyết xung đột” để đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hợp tác giữa Liên hợp quốc với các tổ chức khu vực trong xử lý các thách thức toàn cầu nói chung và ngăn ngừa, giải quyết xung đột nói riêng ở các khu vực; tổ chức phiên họp cấp Bộ trưởng với chủ đề “Khắc phục hậu quả bom mìn và duy trì hòa bình bền vững: Tăng cường gắn kết để hành động hiệu quả hơn”. Chủ đề này đã thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế bởi nhấn mạnh đến những hậu quả nặng nề do bom mìn và vật liệu nổ sót lại sau chiến tranh gây ra và góp phần nâng cao nhận thức của các quốc gia về khía cạnh nhân đạo, nhân văn và sự cần thiết phải tăng cường hợp tác quốc tế trong các hoạt động khắc phục hậu quả bom mìn; tổ chức phiên thảo luận mở cấp bộ trưởng về chủ đề “Bảo vệ cơ sở thiết yếu đối với sự sống của người dân trong xung đột vũ trang”.
Từ năm 2014, Việt Nam đã cử sĩ quan tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi. Tính đến tháng 11-2019, Việt Nam cử 2 bệnh viện dã chiến cấp hai tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại hai quốc gia này. Cuối năm 2018, Việt Nam được Liên hợp quốc lựa chọn làm địa điểm huấn luyện lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế. Ngày 13-11-2020, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, có hiệu lực từ ngày 1-7-2021. Đây là bước đi thể hiện sự đóng góp ngày càng có trách nhiệm của Việt Nam trong các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Là một trong những nước thành viên sáng lập ASEM, Việt Nam tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung nhằm bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang dựa trên nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế, chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, vì hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, vì hòa bình, ổn định, thịnh vượng ở khu vực và trên thế giới, xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. Bên cạnh đó, trong các vấn đề khác như môi trường, nhân quyền, phát triển nguồn nhân lực, cải thiện hệ thống y tế, an ninh lương thực..., Việt Nam cũng đóng góp tiếng nói tích cực để giải quyết những vấn đề phức tạp này.
Kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát trên toàn thế giới, tất cả các quốc gia đều phải “gồng mình” ứng phó với dịch bệnh, trong đó có Việt Nam. Ngay từ những giai đoạn đầu bùng phát dịch bệnh, bên cạnh việc chia sẻ các kinh nghiệm trong phòng, chống dịch bệnh, Việt Nam đã triển khai thực hiện những hoạt động viện trợ tích cực về vật tư, thiết bị y tế cho các hoạt động chống dịch của các quốc gia khác trong khu vực cũng như trên thế giới, trong đó có cả các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc… Đặc biệt, với một số nước ASEAN như Lào và Campuchia, ngoài sự viện trợ về vật tư, thiết bị y tế, như máy thở, quần áo bảo hộ, khẩu trang y tế, hệ thống xét nghiệm và bộ xét nghiệm, Việt Nam còn cử các đoàn chuyên gia y tế sang hỗ trợ các nước chống dịch. Trong giai đoạn đại dịch COVID-19 vẫn tiếp tục hoành hành với sự xuất hiện của biến thể mới, những hoạt động này càng cho thấy tinh thần trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế, gửi đi thông điệp về tình đoàn kết và tương trợ lẫn nhau khi sẵn sàng chia sẻ, đồng hành cùng các nước chống dịch.
Phát huy hơn nữa vai trò thành viên có trách nhiệm trong các tổ chức khu vực và quốc tế
Kể từ khi tham gia hội nhập sâu, rộng vào các tổ chức quốc tế và khu vực, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong triển khai phương châm đối ngoại là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Hình ảnh một Việt Nam có trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu vì hòa bình, phát triển ngày càng được thế giới ghi nhận.
Tuy nhiên, trong quá trình tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, vẫn còn một số hạn chế ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò thành viên có trách nhiệm của Việt Nam:
Một là, tình hình quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, nhanh chóng, sự thay đổi trong chính sách và quan hệ của các nước lớn, nhất là quan hệ Mỹ - Trung Quốc. Điều này đã tạo ra thách thức lớn đối với Việt Nam trong nỗ lực duy trì quan hệ cân bằng và tốt đẹp với các nước lớn.
Hai là, việc triển khai thực thi chính sách đối ngoại trong thực tiễn đôi khi vẫn chưa mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện. Việc xây dựng các khuôn khổ quan hệ thực chất và hiệu quả, triển khai các thỏa thuận đã ký kết thực chất, tham gia và tận dụng các thể chế đa phương để bảo vệ tốt hơn lợi ích của Việt Nam vẫn chưa được như mong muốn. Sự tham gia của các bộ, ngành và địa phương vào công tác đối ngoại còn chưa đồng đều.
Ba là, trên thực tế, các khuôn khổ hợp tác quốc tế hiện nay không chỉ đơn thuần là hợp tác mà còn tồn tại sự cạnh tranh quyết liệt. Hiện nay, trình độ phát triển khoa học - công nghệ, kinh tế của Việt Nam còn chưa cao, sức cạnh tranh còn hạn chế, vì vậy chưa thực sự thích ứng cao với tập quán thương mại quốc tế. Hơn nữa, trong khối ASEAN, cơ cấu kinh tế và thương mại của hầu hết các nước tương đối giống nhau, đều coi trọng việc đẩy mạnh xuất khẩu và cạnh tranh các thị trường ở nước ngoài, nên Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển thị trường cả ở trong và ngoài nước.
Bốn là, quá trình tham gia và thực hiện những cam kết quốc tế cho thấy Việt Nam còn thiếu nguồn nhân lực thông thạo ngoại ngữ, có trình độ chuyên môn, am hiểu luật pháp quốc tế… tương xứng với trình độ chung của khu vực, do đó phần nào hạn chế cơ hội thuận lợi khi tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực.
Năm là, trong các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia tồn tại sự khác biệt về mặt thể chế chính trị, định hướng phát triển, nhìn nhận trong các vấn đề phát triển (mô hình, giá trị…), điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc tăng cường lòng tin, thắt chặt quan hệ với một số đối tác. Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống, như an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… diễn biến phức tạp. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng và lợi ích quyết liệt không chỉ ảnh hưởng đến tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch, mà còn ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò, thậm chí là sự tồn tại của những tổ chức thương mại đa phương. Kinh tế thế giới khó khăn hơn do các rủi ro nội tại cũng như tác động của đại dịch COVID-19.
Sáu là, nền kinh tế Việt Nam cũng đang phải đối mặt với không ít thách thức trong bối cảnh diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Nguy cơ bùng phát làn sóng lây nhiễm COVID-19 với nhiều biến thể mới kèm theo các rủi ro về đứt gãy chuỗi cung ứng vẫn đang hiện hữu ở nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới, trong đó có những đối tác thương mại, đầu tư lớn của Việt Nam. Tất cả những điều này đã và đang đặt ra thách thức lớn đối với Việt Nam trong phát huy vai trò của mình trong cộng đồng quốc tế.
Trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế của Việt Nam, cần tiếp tục thực hiện một số vấn đề mang tính định hướng sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức hơn vai trò, trách nhiệm của quốc gia khi tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế. Nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận của cả xã hội đối với việc tuân thủ và thực hiện các cam kết và thỏa thuận quốc tế, nhất là nhận thức về những cơ hội, thách thức và những yêu cầu đặt ra. Sau gần ba thập niên gia nhập ASEAN, Việt Nam ngày càng nâng cao được nhận thức và vai trò trách nhiệm trong hợp tác quốc tế. Lòng tin giữa Việt Nam với các nước được nâng lên rõ rệt. Mỗi cá nhân, đoàn thể, các bộ, ban, ngành từ Trung ương tới địa phương cần nhận thức việc thực hiện các cam kết, trước hết và trên hết là bảo đảm lợi ích của quốc gia - dân tộc. Hơn nữa chỉ có thể nâng cao trách nhiệm, bảo đảm các cam kết, đem lại lợi ích cho đối tác mới là cơ sở bền vững cho bảo đảm lợi ích của mình.
Hai là, tổ chức thực hiện các cam kết, thỏa thuận quốc tế một cách hiệu quả. Việt Nam đã trải qua giai đoạn thực hiện các cam kết bước đầu, đến nay, quá trình này đang ngày càng đi vào chiều sâu, nên việc thực hiện các cam kết trong giai đoạn mới càng cần đầy đủ, nghiêm túc và hiệu quả, góp phần tạo dựng, nâng cao mức độ tin cậy, đẩy mạnh và chủ động làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác trong khu vực và trên thế giới; mặt khác, điều này giúp Việt Nam tận dụng tối đa các cơ hội nhằm mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, triển khai chiến lược tổng thể liên quan đến đào tạo nguồn nhân lực. Việt Nam cần tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao để đón đầu những cơ hội, học tập những kinh nghiệm do hội nhập quốc tế mang lại. Công nghệ và nhân tài sẽ quyết định thành công trong cạnh tranh ở thế kỷ XXI. Cần tập trung nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, đẩy mạnh tiếp thu thành tựu khoa học - công nghệ của thế giới và có cơ chế khuyến khích tìm kiếm, đào tạo nhân tài để từng bước chuyển từ nhập khẩu công nghệ sang phát kiến, tạo lập công nghệ nguồn.
Bốn là, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo những thay đổi trong tình hình quốc tế. Việc hội nhập khu vực và thế giới mang lại những cơ hội phát triển, song cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với sự ổn định chính trị, an ninh quốc gia, thậm chí sự phụ thuộc về kinh tế nếu không có chính sách phù hợp. Vì vậy, cần nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực có tác động đến Việt Nam, các xu thế phát triển, các sáng kiến mới và kinh nghiệm của các nước đã thực thi hiệu quả cam kết hội nhập, là cơ sở để hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách đúng đắn trong hội nhập quốc tế.
Việc tuân thủ các tiêu chuẩn, chuẩn mực và thể chế quốc tế, xử lý hài hòa giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, đóng góp sáng kiến trong khuôn khổ hợp tác, tham gia giải quyết các vấn đề trong khu vực và trên toàn cầu là những cách thức hữu hiệu để Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế và nâng cao uy tín quốc gia, thể hiện ngày càng tốt hơn vai trò là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế./.
Vũ Thị Phương Dung, Tạp chí Cộng sản
----------------------------------------
(1) Nguyễn Anh Tuấn - Đỗ Xuân Đoài: “Quyền con người - khát vọng của nhân loại tiến bộ”, báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 15-12-2021, https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/bai-3-no-luc-cua-viet-nam-trong-tien-trinh-hien-thuc-hoa-tiep-theo-va-het-680465
(2) Hiệp ước Thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), ngày 24-2-1976, http://trucotanct.asean.vietnam.vn/Default.aspx?Page=NewsDetail&NewsId=38177