Thấm nhuần quan điểm của V.I. Lênin “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế”[1] và “không hiểu lý luận thì như người mù đi đêm”[2]; từ đó Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu, học tập lý luận, không được coi thường lý luận, phải biết vận dụng lý luận vào thực tiễn. Quán triệt và thực hiện quan điểm của Người về vai trò tiên phong của lý luận cách mạng, qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm, chăm lo công tác nghiên cứu, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc nhằm cung cấp cơ sở khoa học để hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1. Những thành tựu, hạn chế trong nghiên cứu, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới
Trong qúa trình đổi mới, Đảng ta đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, đạt được nhiều kết quả. Qua gần 40 năm đổi mới, tư duy mới về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng được hình thành và từng bước bổ sung, phát triển, hoàn thiện hơn.
Nhận thức về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng toàn diện, đầy đủ hơn. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng đưa vấn đề “giữ vững chủ quyền biển đảo” và “ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống” vào nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, đồng thời nhấn mạnh “an ninh chủ động”. Đại hội Đảng lần thứ XII của Đảng mở rộng mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ “an ninh chính trị” thành bảo vệ “an ninh quốc gia” và đề cập vấn đề “an ninh con người”. Kế thừa tư duy đổi mới từ các kỳ Đại hội trước và xuất phát từ thực tiễn, Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[3]. Như vậy, nội hàm mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc tại Đại hội Đảng lần thứ XIII đã phát triển, mở rộng nội dung “bảo đảm an ninh con người”. Đây là vấn đề mới, quan trọng trong phát triển nhận thức lý luận của Đảng.
Quan điểm, tư tưởng, phương châm chỉ đạo bảo vệ Tổ quốc đã có những bước phát triển ngày càng toàn diện, đầy đủ hơn. Đã xác định rõ vai trò lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; mối quan hệ gắn bó giữa mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng; nắm chắc tình hình, chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến. Phương châm chỉ đạo: Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết bất đồng, tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế; có đối sách phù hợp với từng đối tượng, từng tình huống. Kế thừa tư duy đổi mới từ các kỳ Đại hội trước, Đại hội Đảng lần thứ XII đã bổ sung “Kiên quyết, kiên trì” vào phương châm chỉ đạo. Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng tiếp tục phát triển, khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”[4].
Nhận thức về sức mạnh, lực lượng bảo vệ Tổ quốc đã có sự phát triển mới, phù hợp với tình hình. Bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của quốc gia cả về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, quốc phòng, an ninh, của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy sức mạnh của lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Đó là sự kết hợp của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế... Tất cả các sức mạnh đó được kết tinh lại đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự đồng lòng, thống nhất về quyết tâm và ý chí của toàn dân; trong đó, lấy sức mạnh chính trị, tinh thần làm cốt lõi; đại đoàn kết toàn dân tộc làm động lực chủ yếu, thế trận lòng dân làm nền tảng. Kế thừa tư duy đổi mới từ các kỳ Đại hội trước, Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế”[5], đến Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế”[6].
Nhận thức về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc đã có những phát triển mới. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, quan điểm của Đảng là sử dụng tổng hợp các phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang; đồng thời kết hợp chặt chẽ các phương thức đấu tranh ấy; làm phong phú các hình thức đấu tranh phi vũ trang trong bảo vệ Tổ quốc; kết hợp giữa bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ; nhấn mạnh phương thức đấu tranh phi vũ trang; đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ; phát triển quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy, quan điểm “tự bảo vệ” trong điều kiện mới. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng đến nay, phương thức đấu tranh phi vũ trang được Đảng hết sức coi trọng. Phương thức đấu tranh phi vũ trang trong tình hình mới có những hình thức, biện pháp đấu tranh diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa - tư tưởng, xã hội, quốc phòng, an ninh, ĐN; trong đó, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa là mũi nhọn, then chốt. Phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang được Đảng kết hợp chặt chẽ, biện chứng, sử dụng linh hoạt và mềm dẻo, đã và đang phát huy được sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức về đối tác, đối tượng, quan hệ đối tác, đối tượng là một trong những đổi mới mang tính đột phá của Đảng ta. Phát triển tư duy bạn - thù thành tư duy đối tác - đối tượng và sự chuyển hóa các mối quan hệ đó. Nguyên tắc xác định đối tác - đối tượng được nêu rõ từ Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX): “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”[7]. Từ đó đến nay, trong các kỳ Đại hội, Đảng ta tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển quan điểm này. Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, ngày 25/10/2013 xác định: Việc vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác - đối tượng là một trong 07 quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là vấn đề then chốt, mang tính đột phá trong tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc, thể hiện định hướng kịp thời tháo gỡ được vướng mắc lớn trong nhận thức, mở đường, định hướng chiến lược cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn. Cùng với quá trình phát triển của cách mạng trong điều kiện lịch sử mới, Đảng khẳng định và làm sâu sắc thêm quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ biện chứng với nhau; trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phải đồng thời phải coi trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, có bảo vệ tốt mới tạo được điều kiện thuận lợi cho xây dựng đất nước. Nhận thức về kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn. Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng khẳng định: “Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[8]; đến Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng chỉ rõ: “Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”[9]. Đồng thời Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng cũng xác định: “gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[10].
Phát triển nhận thức bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy. Từ Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc, rõ ràng hơn mục tiêu, quan điểm, tư tưởng, phương châm, sức mạnh, lực lượng, phương thức bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy với đặc trưng, biểu hiện quan trọng nhất là trạng thái “tích cực, chủ động”; tinh thần tự giác, ý thức, trách nhiệm cao của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện trên cả phương diện thời gian, không gian và phương thức tiến hành. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Đại hội XIII của Đảng, vấn đề bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy được chú trọng đặt lên hàng đầu với phương hướng: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”[11]; “Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”[12].
Nhận thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ rõ: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và hậu phương ngày càng vững mạnh”[13]. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, khái niệm “thế trận quốc phòng toàn dân”, “thế trận an ninh nhân dân” lần đầu tiên được chính thức đề cập với nội dung: “Xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới”[14] và nhấn mạnh: “củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng cũng nêu rõ: “Không ngừng nâng cao giác ngộ và cảnh giác chính trị của nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới, với những lực lượng nòng cốt tinh nhuệ”[15]. Các kỳ Đại hội tiếp theo, Đảng đều khẳng định lại quan điểm về xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân. Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng bổ sung mối quan hệ giữa thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân khi đánh giá: “Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ngày càng được củng cố”. Nội dung này được phát triển hoàn thiện hơn ở Đại hội lần thứ XI khi Đảng ta nhận định: “Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh, được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp”. Trên cơ sở đó, Đảng chủ trương: “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”. Quan điểm này tiếp tục được Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định, được quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc trong hệ thống chính trị và toàn dân. Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng xác định rõ: “Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”[16]. Sự kết hợp này sẽ tạo dựng một thế trận toàn diện, đồng bộ, vững chắc trên các địa bàn, tuyến, lĩnh vực và trong phạm vi cả nước, bảo đảm tính chủ động chiến lược về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, so với yêu cầu, nhiệm vụ, công tác nghiên cứu lý luận về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình mới vẫn còn một số hạn chế, đó là: Một số vấn đề lý luận về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của Đảng đã được bổ sung, phát triển nhưng chưa thật sự hoàn chỉnh, từ đó có cách hiểu khác nhau dẫn đến những hạn chế, bất cập trong triển khai, tổ chức thực hiện. Một số vấn đề lý luận về quân sự, quốc phòng tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của thực tiễn. Nghiên cứu về tình hình thế giới, khu vực và vấn đề thời đại chưa sâu sắc, toàn diện. Nghiên cứu những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết mới chưa được nhiều. Hợp tác quốc tế về lý luận về quân sự, quốc phòng còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về quân sự, quốc phòng chưa được triển khai thực hiện kịp thời; công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về quân sự, quốc phòng có thời điểm chưa theo kịp diễn biến của tình hình...
2. Bối cảnh mới và định hướng tăng cường nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới
Hiện nay và trong những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới diễn biến thay đổi hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định; các mâu thuẫn cơ bản của thời đại tiếp tục tồn tại và phát triển, đồng thời xuất hiện những mâu thuẫn mới. Chiến tranh quy mô lớn ít có khả năng xảy ra nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt hơn. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau và can dự, chi phối vào nội bộ các nước khác... Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ với tốc độ cấp sô nhân, tạo ra thời cơ và đột phá trên nhiều lĩnh vực, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh vẫn tiếp diễn phức tạp; xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động sâu sắc tới mọi quốc gia, dân tộc.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, trong đó Đông Nam Á tiếp tục phát triển năng động nhưng cũng là khu vực trọng điểm của cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhiều điểm nóng an ninh phức tạp. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Việc giải quyết các khu vực còn tồn đọng trên biên giới đất liền và phân định vùng nước lịch sử trên biển giữa Việt Nam và Campuchia rất phức tạp, nếu giải quyết không tốt, các thế lực thù địch có thể lợi dụng, kích động gây xung đột giữa Việt Nam - Campuchia ở biên giới và vùng biển Tây Nam. Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao. Tuy nhiên, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ vẫn tồn tai, có mặt sẽ diễn biến phức tạp hơn; các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết với nhau tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình” với âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng công khai, trực diện hơn. Nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc có bổ sung, phát triển mới.
Bối cảnh tình hình trên đặt ra yêu cầu mới phải tăng cường nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc nhằm định hướng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó, định hướng công tác nghiên cứu lý luận về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới phải tiếp tục bám sát Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định. Trong đó, cần tiếp tục tập trung làm rõ làm rõ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về đối tác, đối tượng; về vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội và nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; về mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, lực lượng, thời gian, không gian, phương thức bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới; về lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”; kết hợp kinh tế, văn hóa với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; dự báo những xu thế lớn của khu vực và thế giới, thời cơ, thuận lợi cũng như thách thức tác động tới nhiệm vụ quân sự, quốc phòng nói riêng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung…
3. Yêu cầu đặt ra đối với việc tăng cường nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
Để thực hiện được những định hướng trên, đáp ứng yêu cầu tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cần tập trung thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
Một là, chủ động tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới cần bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu, bảo đảm cho tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đi đúng định hướng của Đảng. Đường lối quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là một bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị của Đảng và phụ thuộc vào đường lối chính trị của Đảng, là cơ sở lý luận để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng. Do đó, bám sát đường lối chính trị của Đảng để hoạch định chủ trương, đường lối, bổ sung, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới là vấn đề có tính nguyên tắc trong nhận thức và hành động của mọi tổ chức, cá nhân trong quá trình tổng kết, nghiên cứu triển lý luận về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, nắm chắc mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh, tình hình mới để nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Đây là yêu cầu rất quan trọng, bảo đảm cho công tác nghiên cứu, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đi đúng trọng tâm, trọng điểm, đúng mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Nghị quyết số 44-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, ngày 24/11/2023 xác định mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ nền văn hóa và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; triệt tiêu các nhân tố mất ổn định chính trị từ bên trong, kiên quyết không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập ở trong nước; dập tắt nguy cơ xung đột quân sự, chiến tranh; giữ vững, củng cố môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước; đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình khu vực, thế giới”[17].
Trên cơ sở nắm chắc mục tiêu, nhiệm vụ trên, phải bám sát sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ cách mạng, nhất là sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, những biến đổi của thế gới, khu vực và trong nước để nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, dựa chắc vào nguyên tắc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là toàn diện, đồng bộ, bao gồm cả bảo vệ các yếu tố địa lý, chính trị, xã hội và không gian mạng, trong đó, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, trước hết, là tối thượng. Từ đó, nghiên cứu, bổ sung, phát triển về mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, sức mạnh, lực lượng, tư tưởng, phương châm, nguyên tắc, phương thức bảo vệ Tổ quốc và mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về đối tác, đối tượng; về vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội và nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; về mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, lực lượng, thời gian, không gian, phương thức bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân; về lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”; về kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, đối ngoại; về khu vực phòng thủ; những vấn đề về an ninh phi truyền thống và tác động, ảnh hưởng của nó đối với nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; về nghệ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự Việt Nam; về đấu tranh quốc phòng; về đối ngoại quốc phòng; về văn hóa quân sự…
Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy vai trò của hệ thống tổ chức, lực lượng trong cả nước, trực tiếp là các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cơ quan chiến lược, các trung tâm nghiên cứu, các cơ sở đào tạo trong và ngoài Quân đội. Đây là những cơ quan, lực lượng có chức năng, nhiệm vụ tổ chức tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về từng lĩnh vực quốc phòng, quân sự dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương... Xây dựng đội ngũ các nhà khoa học bảo đảm tính đồng bộ, toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, hội tủ yêu cầu “hồng” và “chuyên”; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức tổng hợp sâu rộng về lý luận bảo vệ Tổ quốc, nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc của Đảng; có tư duy sắc sảo ở tầm chiến lược, nhạy bén trước những biến đổi của tình hình thế giới, khu vực và trong nước để sớm phát hiện vấn đề cần nghiên cứu, phát triển; đồng thời, phải có kỹ năng nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và khái quát thành các vấn đề lý luận. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nghiên cứu lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cần coi trọng cả bề rộng và chiều sâu, để vừa xây dựng được những chuyên gia đầu đàn có khả năng kết nối và dẫn dắt các cán bộ khoa học thành một tập thể khoa học mạnh; đồng thời, có lực lượng kế cận và lực lượng kế tiếp làm nòng cốt cho nhiệm vụ tham gia nghiên cứu xây dựng và phát triển đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cả trong hiện tại và những năm tiếp theo.
Phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, mà đặc biệt ở các cơ quan nghiên cứu cần có nghị quyết lãnh đạo sát đúng, phát huy vai trò của cấp ủy, người chỉ huy, tạo bầu không khí dân chủ, môi trường làm việc thuận lợi, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ phát huy năng lực, trí tuệ, sức sáng tạo khoa học. Bảo đảm nguồn lực vật chất cho các hoạt động nghiên cứu thực tiễn, điều tra, khảo sát thực trạng nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Có cơ chế, chính sách khuyến khích, đãi ngộ thỏa đáng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho các nhà khoa học nhằm thu hút nhân tài tham gia, cống hiến cho lĩnh vực này.
Tóm lại, tăng cường nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng trong thời gian tới. Quán triệt và bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới, phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng trong điều kiện mới là những vấn đề rất quan trọng cần nắm vững và thực hiện tốt, nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống lý luận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Thượng tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN THÀNH
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 273.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr. 276.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr.156
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr.157
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.147
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr.155-156
[7] Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lẩn thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, tr.44
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.146
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr.157
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr.110
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr.156-157.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr.159.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.559.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tr.142.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007, tập 51, tr.142.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tr.156.
[17] Nghị quyết số 44-NQ/TW, Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, ngày 24/11/2023 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.