19/12/2024 lúc 23:39 (GMT+7)
Breaking News

Quốc tế hóa - động lực, biện pháp để đổi mới giáo dục đại học

VNHN -  Quốc tế hóa vừa là mục tiêu nhưng cũng là động lực và biện pháp để Việt Nam có thể đổi mới nền giáo dục. Đây là nhận thức cần được quán triệt sâu rộng đến toàn bộ hệ thống giáo dục cũng như tất cả giáo viên và sinh viên. Đó là quan điểm của GS.TS Phạm Quang Minh – Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội).

VNHN -  Quốc tế hóa vừa là mục tiêu nhưng cũng là động lực và biện pháp để Việt Nam có thể đổi mới nền giáo dục. Đây là nhận thức cần được quán triệt sâu rộng đến toàn bộ hệ thống giáo dục cũng như tất cả giáo viên và sinh viên. Đó là quan điểm của GS.TS Phạm Quang Minh – Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội).

Quốc tế hóa trong giáo dục ĐH: Thuận lợi và thách thức

Nhắc tới những cơ hội và thách thức mà sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 đem đến, trong đó có thách thức về đào tạo nguồn nhân lực, GS.TS Phạm Quang Minh khẳng định: Đổi mới giáo dục ĐH Việt Nam phải chú trọng đến hội nhập quốc tế bởi đây là một xu hướng tất yếu mang tính toàn cầu. Toàn cầu hóa giáo dục mà trong đó quan trọng nhất là giáo dục ĐH là một vấn đề thiết yếu và sống còn trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia.

Theo GS.TS Phạm Quang Minh, nhờ có toàn cầu hóa giáo dục, sự ra đời của các trường ĐH đa quốc gia và các mạng lưới các trường ĐH (United Nations University, European University, ASEAN University Network) dần hình thành, khiến việc phổ biến những chương trình đào tạo mới và nhiều cải cách khác đã nhanh chóng trở thành hiện thực nhằm đáp ứng nhu cầu tức thời của những nước mà hệ thống giáo dục ĐH chưa có đủ những nhà cung cấp tương xứng, từ đó giúp phát triển về cả chất và lượng đối với người học.

Tuy nhiên, toàn cầu hóa giáo dục ĐH cũng đem lại một số điều bất cập. Những xu hướng như tăng cường sử dụng internet cùng toàn cầu hóa tri thức có tiềm năng tạo ra những thách thức đối với các trường ĐH và các hệ thống đào tạo ĐH ở những quốc gia đang phát triển.

Trong một thế giới bị phân cực thành những trung tâm và vùng ngoại biên, các trung tâm sẽ tăng trưởng mạnh hơn, áp đảo hơn khiến các vùng ngoại biên ngày càng bị cách ly khỏi nhịp điệu phát triển xã hội. Có rất ít khoảng trống để các trường ĐH hay các hệ thống đào tạo ĐH phát triển một cách độc lập trong khung cảnh hệ thống giáo dục ĐH toàn cầu đang ngày càng cạnh tranh, biến chuyển nhanh và bị thống trị bởi những trường ĐH đẳng cấp quốc tế ở những nước công nghiệp hóa.

“Những chuẩn mực, giá trị, ngôn ngữ, đổi mới khoa học và sản phẩm tri thức của các nước trong khu vực trung tâm đã làm cho những ý tưởng và sự sáng tạo của các quốc gia vùng biên bị áp đảo, “lãng quên”, ít được chú ý. Những nước nhỏ hơn, nghèo hơn có rất ít tự chủ hay tiềm năng cạnh tranh trong thế giới toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa trong giáo dục ĐH trong một số trường hợp, thực sự làm trầm trọng thêm những bất bình đẳng vốn đã sâu sắc giữa sân chơi tri thức của các trường ĐH trên thế giới” – GS Phạm Quang Minh cho hay.

GS.TS Phạm Quang Minh - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN 

“Lá chắn” bảo tồn bản sắc tri thức

Chính bởi những thách thức lớn như vậy khi toàn cầu hóa giáo dục diễn ra, GS Phạm Quang Minh cho rằng, các quốc gia cần phải có một hình thức để bảo vệ những bản sắc tri thức của riêng mình. Một trong số đó là nhờ hợp tác giáo dục khu vực, bởi lẽ bằng việc chia sẻ những điểm tương đồng trong khu vực, các quốc gia tin rằng chính những điểm tương đồng đó sẽ như một lớp “lá chắn” bảo tồn một cách tốt nhất cho những bản sắc tri thức của mình. ASEAN có thể xem như như là một ví dụ điển hình nhất với mô hình Mạng lưới các trường ĐH ASEAN - The ASEAN University Network (AUN).

Với tư cách là một thành viên đi đầu trong tổ chức AUN, trải qua 30 năm Đổi mới, giáo dục ĐH của Việt Nam đã cung cấp hàng triệu nhân lực có trình độ cao đẳng, ĐH, hàng vạn lao động có trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ cho đất nước.

GS Phạm Quang Minh cho rằng, đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, của phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Hệ thống cơ sở đào tạo ĐH đã phủ gần kín cả nước (62/63 tỉnh, thành phố đã có ĐH hoặc CĐ).

Đầu tư của nhà nước cho giáo dục ĐH tăng nhanh, cơ chế tài chính cho giáo dục ĐH đã bắt đầu được đổi mới. Nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục ĐH tăng nhanh. Đã bắt đầu hình thành hệ thống quản lý chất lượng giáo dục ĐH trong cả nước; cơ chế nhà nước, nhà trường và người dân giám sát chất lượng giáo dục, đầu tư cho giáo dục. Quan hệ quốc tế phát triển tương đối nhanh cả cấp quốc gia, cấp trường.

Tuy nhiên, giáo dục ĐH cũng đang đứng trước thách thức rất to lớn: Chương trình đào tạo còn có nhiều phần chưa hợp lý, so sánh với quốc tế và khu vực thì còn tồn động nhiều điểm hạn chế nhất định, cơ sở vật chất và phương pháp phục vụ cho nghiên cứu còn có phần lạc hậu, cần có sự ủng hộ lớn của bạn bè quốc tế và sự quan tâm của nhà nước.

Khẳng định bước vào thời kỳ quốc tế hóa giáo dục, giáo dục ĐH Việt Nam đã có một hành trang, một di sản quý báu, đó chính truyền thống lâu đời dựa trên phương châm “Tiên học Lễ, hậu học Văn” - đề cao những giá trị đạo đức, đề cao việc làm người -  GS Phạm Quang Minh cho rằng đây là truyền thống tốt đẹp cần được phát huy trong thời đại toàn cầu hóa. Để tồn tại trong thời đại toàn cầu hóa mỗi dân tộc cần phải bảo vệ bản sắc riêng của mình. Sự đa dạng về văn hóa, giáo dục không chỉ có lợi cho việc bảo vệ bản sắc của mỗi dân tộc mà còn quan trọng với toàn nhân loại.

Từ thực tiễn của Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn với thuận lợi và khó khăn riêng trong quá trình quốc tế hóa, theo GS Phạm Quang Minh, muốn chủ động lựa chọn kinh nghiệm của các nước, đóng góp phần mình vào dòng chảy tri thức chung của nhân loại, muốn hội nhập và hấp thu được những lợi ích do công cuộc toàn cầu hóa mang lại, một trong những việc mà Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn cần làm là phải có một quyết sách mạnh mẽ nhằm nâng cao nhận thức và thúc đẩy việc học tiếng Anh trong Nhà trường, từ đó gia tăng tỷ lệ trao đổi sinh viên, hợp tác giữa các khoa của Nhà trường với các trung tâm đào tạo lớn ở ngoài nước.

Để thực hiện chiến lược quốc tế hóa, Nhà trường đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng tiếng Anh, tổ chức câu lạc bộ Lunch Box sinh hoạt bằng tiếng Anh, xuất bản tạp chí bằng tiếng Anh, các môn học dạy bằng tiếng Anh, thực hiện các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh, trong đó có ngành Việt Nam học, khen thưởng các công bố quốc tế, hướng tới có nhiều hơn công bố quốc tế ở các tạp chí hoặc nhà xuất bản có chỉ số ảnh hưởng cao…

“Để thực hiện được những yêu cầu trên, nhà trường cần nhất là những quỹ tài trợ nghiên cứu lớn như NAFOSTED, vì vậy cần phải gấp rút nghiên cứu, mở rộng hợp tác quốc tế, cần phát triển hệ thống quỹ đầu tư cho các nghiên cứu cơ bản với các sản phẩm đặc sắc đỉnh cao mang thương hiệu quốc gia và quốc tế” – GS Phạm Quang Minh cho hay.

“Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang xem xét một loạt các đề nghị về việc xem giáo dục ĐH như một lĩnh vực thương mại nhằm bảo đảm cho việc xuất nhập khẩu giáo dục ĐH tuân theo những luật lệ phức tạp, những quy định pháp quy theo nghị định thư WTO và bảo đảm cho nó gần như không bị hạn chế.

Sáng kiến của WTO đặt ra những mối đe dọa nghiêm trọng đối với lý tưởng truyền thống của trường ĐH, cũng như đối với quyền kiểm soát giáo dục của quốc gia, thậm chí của các trường, vì vậy rất cần được cân nhắc hết sức thận trọng. Thế giới đang ở giữa cuộc cách mạng thực sự trong giáo dục ĐH, một cuộc cách mạng có khả năng làm biến đổi hết sức sâu sắc những hiểu biết của chúng ta về vai trò của trường ĐH”.

GS Phạm Quang Minh

Theo Giaoducthoidai.vn