05/12/2025 lúc 14:01 (GMT+7)
Breaking News

Phản bác luận điệu “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”

Tóm tắt: Trước những thành tựu quan trọng, toàn diện của đất nước trên hành trình phát triển và hội nhập, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục tung ra luận điệu “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc mô hình phát triển đất nước, gieo rắc tâm lý hoài nghi, bi quan trong xã hội. Với luận điệu sai trái, phản động đó, chúng nhằm mục tiêu cản trở tiến trình đổi mới, phủ nhận khát vọng phát triển, làm xói mòn lòng tin của Nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết góp phần lật tẩy bản chất phản động của luận điệu xuyên tạc, khẳng định tầm vóc, vị thế của đất nước, vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng, từ đó đấu tranh, phản bác hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch.

Từ khoá: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; luận điệu xuyên tạc; vị thế đất nước; vai trò lãnh đạo của Đảng.

Ảnh minh họa - TL

Nhận diện quan điểm sai trái: “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”

Khi cả nước đang hướng về Đại hội XIV của Đảng với khí thế đổi mới mạnh mẽ và khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” – như Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh. Đây không đơn thuần là khẩu hiệu chính trị, mà là kết tinh của tầm nhìn chiến lược, ý chí hành động và niềm tin vững chắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Thế nhưng, cũng chính trong thời điểm mang ý nghĩa bước ngoặt ấy, các thế lực thù địch, phản động lại ráo riết đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, tung ra nhiều luận điệu sai trái nhằm phủ nhận hiện thực phát triển, xuyên tạc đường lối của Đảng, gieo rắc hoài nghi vào lòng xã hội.

Một trong những luận điệu điển hình, đang được chúng cổ súy một cách nguy hiểm là: “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì thể chế đã lỗi thời, bộ máy trì trệ, vai trò lãnh đạo của Đảng không còn phù hợp với thời đại toàn cầu hóa”. Đây là kiểu lập luận phản động được ngụy tạo bằng vỏ bọc học thuật, “đa chiều”, nhưng thực chất là phủ nhận sạch trơn vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc thành quả đổi mới, kích động “đa nguyên chính trị”, từng bước thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”.

Không khó để nhận diện hệ thống “loa phóng thanh” của những luận điệu sai trái này. Các nền tảng chống phá như BBC tiếng Việt, RFA, VOA tiếng Việt, Việt Tân, cùng một số kênh YouTube trá hình, thường xuyên đăng tải các nội dung gán ghép, quy chụp chủ quan, bóp méo hiện thực đất nước. Ngày 20/3/2025, trang BBC tiếng Việt đăng tải bài viết “Việt Nam không thể bứt phá vì mô hình phát triển bị kiểm soát bởi Đảng”, một cách trắng trợn quy kết rằng Đảng là “rào cản thể chế”. Trên trang mạng xã hội của tổ chức phản động Việt Tân ngày 25/3/2025, hai bài viết “Thể chế hiện hành là rào cản sáng tạo” và “Việt Nam cần đa nguyên, đa đảng mới có thể vươn mình” đã được phát tán rộng rãi nhằm kích động tâm lý bài bác chế độ. Tất cả những nội dung đó đều không dựa trên bất kỳ cơ sở lý luận hay thực tiễn nào, mà chỉ là sản phẩm mang tính kích động chính trị, phiến diện, ác ý.

Tinh vi hơn, chúng cố tình khai thác một số hiện tượng tiêu cực như chậm giải ngân đầu tư công, một vài vụ việc cán bộ vi phạm bị xử lý... để quy kết sai lệch, đánh đồng cá biệt với tổng thể. Trên cơ sở đó, chúng xuyên tạc rằng “kỷ nguyên vươn mình” chỉ là “ảo tưởng chính trị” nhằm che đậy tình trạng trì trệ của hệ thống. Điển hình, ngày 15/3/2025, VOA tiếng Việt đăng bài “Kỷ nguyên vươn mình hay kỷ nguyên trì trệ?”, còn ngày 20/3/2025, RFA phát tán bài “Việt Nam muốn vươn mình, nhưng ai cho phép?”, cả hai đều mượn danh phân tích để lồng ghép những nội dung bóp méo, phủ nhận nỗ lực phát triển và vai trò dẫn dắt của Đảng.

Đặc biệt đáng chú ý, các thế lực thù địch đang gia tăng tấn công cá nhân, xuyên tạc phát biểu của lãnh đạo cấp cao, trong đó có thông điệp quan trọng của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 9 khóa XIII. Chúng cắt ghép, bóp méo ý nghĩa “kỷ nguyên vươn mình” thành “khẩu hiệu mị dân”, rồi lợi dụng không gian mạng để lan truyền thông tin giả, bịa đặt. Các đối tượng phản động như Lê Trung Khoa, Nguyễn Văn Đài, Vũ Đức Khanh… liên tục đăng tải video, bài viết mang danh “đối thoại dân chủ”, “phân tích học thuật”, nhưng nội dung thực chất chỉ nhằm tạo sự nhập nhằng giữa đúng - sai, thật - giả, hướng dư luận rơi vào “ma trận nhận thức”.

Luận điệu “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình” là sự phủ nhận trắng trợn những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã đạt được trong gần 40 năm đổi mới. Những ai cố tình nhắm mắt trước hiện thực sinh động ấy – với một Việt Nam ổn định chính trị - xã hội, kinh tế tăng trưởng bền vững, hội nhập sâu rộng và giữ vững chủ quyền – thực chất là đang cố tình tiếp tay cho mưu đồ phá hoại. Những thành quả đó không phải là “mỹ từ chính trị”, mà là minh chứng thuyết phục cho bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Phía sau luận điệu xuyên tạc ấy là chiến lược rất bài bản nhằm từng bước “phi chính trị hóa” vai trò lãnh đạo của Đảng, kích hoạt tâm lý nghi ngờ, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là âm mưu nguy hiểm, được ngụy trang bằng thủ đoạn mềm dẻo nhưng thâm hiểm. Mỗi phát ngôn của lãnh đạo, mỗi định hướng phát triển đất nước đều có thể trở thành đối tượng để chúng bóp méo, thổi phồng, nhằm phá hoại sự đồng thuận xã hội, gây rối loạn nhận thức chính trị trong lòng công chúng.

Chính vì vậy, nhận diện đúng bản chất, chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn và mức độ nguy hiểm của luận điệu xuyên tạc “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình” là nhiệm vụ chính trị cấp thiết, không thể xem nhẹ. Đó cũng là bước khởi đầu quan trọng để từng bước phản bác có hiệu quả, củng cố niềm tin xã hội, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng và vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Luận cứ phản bác quan điểm: “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”

Luận cứ về lý luận

Quan điểm cho rằng “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là sự phủ nhận trắng trợn và phi lý đối với những quy luật phát triển khách quan của lịch sử, đồng thời xuyên tạc bản chất tiến bộ, cách mạng và khoa học của con đường phát triển đất nước mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn. Trên thực tế, khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam là kết tinh từ lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời là sự tất yếu lịch sử phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, với tư cách là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã khẳng định rõ rằng phát triển là quy luật khách quan của xã hội loài người, phản ánh quá trình vận động, đấu tranh giữa các mặt đối lập trong lòng mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Theo đó, sự tiến bộ không phải là kết quả của ngẫu nhiên hay ý chí chủ quan, mà là tất yếu do mâu thuẫn nội tại của đời sống xã hội thúc đẩy. Trong tác phẩm kinh điển của mình, C.Mác đã chỉ rõ: “Lịch sử của tất cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp”, là quá trình các lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, làm thay đổi quan hệ sản xuất, thúc đẩy xã hội tiến lên trình độ cao hơn. Do đó, Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển không phải là lựa chọn duy ý chí mà là đòi hỏi khách quan, là con đường phù hợp quy luật vận động của lịch sử.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh sáng tạo giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với truyền thống yêu nước, nhân văn sâu sắc của dân tộc và tinh thần tiến bộ của thời đại. Trong tư tưởng ấy, phát triển con người, xã hội và đất nước một cách toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Chúng ta phải xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” và khẳng định: “Độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Đó là sự khái quát sâu sắc cho mục tiêu phát triển bền vững, thịnh vượng, đặt Nhân dân ở vị trí trung tâm, chủ thể và là động lực của sự phát triển.

Từ nền tảng lý luận đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước hình thành và phát triển một cách hệ thống, toàn diện lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội – con đường của phát triển bền vững, tự lực, tự cường, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XIII của Đảng xác định tầm nhìn chiến lược đến năm 2045: Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Đây không phải là tuyên bố hình thức mà là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn sâu sắc, đúc rút lý luận toàn diện, gắn chặt với năng lực lãnh đạo, quản trị quốc gia của Đảng.

Mô hình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo không chỉ kế thừa lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn được kiểm nghiệm trong thực tiễn, không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện. Trong đó, Đảng giữ vai trò lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, nhưng luôn đề cao tính dân chủ, thượng tôn pháp luật, và đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, Nhân dân lên hàng đầu. Đây là mô hình phát triển có căn cứ lý luận rõ ràng, có tính thực tiễn vững chắc và phù hợp với đặc điểm Việt Nam trong thời đại hội nhập sâu rộng.

Chính vì vậy, mọi luận điệu xuyên tạc cho rằng Việt Nam không thể vươn lên, hay kỷ nguyên phát triển là “ảo tưởng” đều là sự bóp méo bản chất của lý luận Mác - Lênin, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phủ nhận những giá trị cốt lõi làm nên sức mạnh của Đảng và dân tộc ta. Thực chất, đó là những quan điểm phản động về chính trị, phản khoa học về lý luận, phản tiến bộ về lịch sử.

Luận cứ về Chính trị - Pháp lý

Việc cho rằng “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là một nhận định phiến diện, lệch lạc và hoàn toàn phản thực tế. Trên thực tế, kỷ nguyên phát triển hiện nay của Việt Nam không phải là kết quả ngẫu nhiên, càng không phải là “kịch bản nhân tạo” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, mà được kiến tạo một cách chủ động, bài bản và có căn cứ chính trị – pháp lý vững chắc, bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Đảng và sự đồng thuận sâu sắc của toàn xã hội.

Về mặt chính trị, Việt Nam hiện đang có một nền chính trị ổn định, thống nhất cao về hệ tư tưởng, chiến lược phát triển và cơ chế lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố then chốt, bảo đảm tính định hướng chiến lược, tính kế thừa, ổn định và đổi mới trong phát triển đất nước. Điều này đã được khẳng định rõ ràng trong Điều 4 Hiến pháp năm 2013, theo đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, và sự lãnh đạo đó là kết quả của lịch sử, là lựa chọn của dân tộc và được toàn dân thừa nhận. Sự thật là, chính nhờ sự lãnh đạo nhất quán, kiên cường của Đảng mà Việt Nam đã vượt qua biết bao biến động địa – chính trị, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đại dịch COVID-19, giữ vững độc lập, chủ quyền và duy trì đà tăng trưởng liên tục trong nhiều thập kỷ.

Thêm vào đó, việc Đảng ta tổ chức thành công nhiều nhiệm kỳ đại hội, gần đây nhất là Đại hội XIII, đã thể hiện rõ tính dân chủ, khoa học và nguyên tắc trong công tác tổ chức, nhân sự và hoạch định đường lối phát triển. Đại hội XIII đã đề ra tầm nhìn chiến lược đến năm 2030, 2045, với mục tiêu rõ ràng: đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đó không chỉ là khẩu hiệu, mà là mục tiêu có cơ sở thực tiễn và hành lang pháp lý để thực thi.

Về mặt pháp lý, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được bảo đảm bởi một hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch và ngày càng hoàn thiện. Hiến pháp 2013 cùng với hàng loạt bộ luật, luật chuyên ngành (Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Quy hoạch, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai sửa đổi…) đã tạo nên một môi trường pháp lý thuận lợi, ổn định và có khả năng thích ứng cao với bối cảnh mới, thu hút mạnh mẽ nguồn lực xã hội, đặc biệt là vốn đầu tư trong và ngoài nước. Những cải cách thể chế đang được triển khai quyết liệt, hướng tới nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ.

Cùng với đó, Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế, trở thành thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tham gia sâu rộng vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP…), đòi hỏi hệ thống pháp luật trong nước phải đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế. Đây là một minh chứng không thể phủ nhận về năng lực thể chế và ý chí hội nhập của Việt Nam – những điều kiện tiên quyết để bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Hơn nữa, tính chính danh của Đảng và Nhà nước Việt Nam còn được thể hiện rõ ràng qua các kỳ bầu cử dân chủ, rộng khắp, đúng pháp luật. Cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, với tỷ lệ cử tri đi bầu lên đến hơn 99%, đã bác bỏ mọi luận điệu cho rằng nhân dân mất niềm tin, mất kỳ vọng. Đó chính là sự khẳng định rõ ràng về niềm tin chính trị và đồng thuận xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và mô hình phát triển hiện nay.

Từ những cơ sở chính trị – pháp lý đó, có thể khẳng định rằng: kỷ nguyên phát triển mới của Việt Nam là một tất yếu mang tính khách quan, có cơ sở lý luận – chính trị – pháp lý đầy đủ, phản ánh khát vọng chính đáng của cả dân tộc và hoàn toàn không thể bị phủ nhận bởi những lời lẽ xuyên tạc, phủ định phiến diện và vô căn cứ. Những luận điệu phủ nhận con đường phát triển của Việt Nam không chỉ vô hiệu về lý luận, mà còn trái pháp lý, phản dân chủ, và nhất định sẽ bị bác bỏ trong thực tiễn phát triển sôi động của đất nước.

Luận cứ về thực tiễnTop of Form

Nếu luận điệu “Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” chỉ là những suy diễn chủ quan, cảm tính, thì thực tiễn phát triển đất nước trong gần 40 năm đổi mới và đặc biệt là hơn một thập kỷ qua chính là luận cứ đanh thép, bác bỏ triệt để mọi quan điểm sai trái, xuyên tạc. Sự trưởng thành toàn diện của đất nước về kinh tế, chính trị, quốc phòng – an ninh, đối ngoại, văn hóa, xã hội… đã và đang xác lập một thời kỳ phát triển mới – thời kỳ vươn mình mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam.

Thứ nhất, thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam những năm gần đây là bằng chứng thuyết phục nhất. Bất chấp những tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19, xung đột địa – chính trị toàn cầu, suy thoái kinh tế quốc tế, chuỗi cung ứng đứt gãy… Việt Nam vẫn duy trì được ổn định vĩ mô, tăng trưởng cao và bền vững. Năm 2022, GDP tăng trưởng 8,02% – mức cao nhất trong hơn một thập kỷ. Dù năm 2023 tăng trưởng giảm nhẹ do ảnh hưởng chung của kinh tế thế giới, song Việt Nam vẫn là điểm sáng trong khu vực, duy trì được các cân đối lớn của nền kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát, giữ vững ổn định chính trị – xã hội.

Đặc biệt, niềm tin của cộng đồng quốc tế vào Việt Nam ngày càng tăng. Các tổ chức uy tín như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)… đều đánh giá cao tiềm năng và triển vọng phát triển của Việt Nam. Việc Việt Nam lọt nhóm các quốc gia thu hút FDI hàng đầu châu Á, trở thành trung tâm sản xuất chiến lược của nhiều tập đoàn công nghệ lớn (Samsung, Intel, LG, Foxconn…), cho thấy vị thế và sức hút thực tế chứ không chỉ là kỳ vọng.

Thứ hai, trong lĩnh vực xã hội – văn hóa, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ nổi bật về giáo dục, y tế, giảm nghèo, phúc lợi xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm mạnh còn dưới 3%, gần như xóa bỏ nạn mù chữ, tuổi thọ trung bình đạt 73,7 tuổi, chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục cải thiện. Những nỗ lực đó không chỉ giúp cải thiện đời sống người dân mà còn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo nền tảng bền vững cho sự vươn mình trong dài hạn. Việt Nam hiện có khoảng 1,1 triệu sinh viên đại học, hàng ngàn tiến sĩ, nhà khoa học, chuyên gia công nghệ đang làm việc ở trong nước và quốc tế – một nguồn lực tri thức quý báu mà ít quốc gia đang phát triển nào có được.

Thứ ba, vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được khẳng định rõ nét. Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (2020–2021), tổ chức nhiều hội nghị cấp cao khu vực và thế giới, là thành viên tích cực trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP… Đây không chỉ là minh chứng về năng lực điều hành, hội nhập quốc tế của đất nước, mà còn phản ánh sự công nhận của bạn bè quốc tế với mô hình phát triển độc lập, tự chủ, đổi mới sáng tạo mà Việt Nam đang theo đuổi.

Thứ tư, thành tựu trong xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng là một minh chứng rõ ràng về năng lực tự chỉnh đốn, tự hoàn thiện và vươn lên của hệ thống chính trị. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” dưới sự chỉ đạo của Trung ương và trực tiếp là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tạo chuyển biến mạnh mẽ, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào con đường phát triển của đất nước. Chỉ có một quốc gia đang trưởng thành mạnh mẽ mới dám đối diện, dám làm trong sạch nội bộ để hướng đến một nền quản trị hiện đại, liêm chính.

Tất cả những thành tựu ấy đã tạo nền tảng vững chắc để đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới – giai đoạn “vươn mình của dân tộc” như khát vọng đã được xác lập tại Đại hội XIII của Đảng. Đó là khát vọng trở thành nước phát triển vào năm 2045 - dấu mốc kỷ niệm 100 năm thành lập nước. Không có thực tiễn nào thuyết phục hơn việc một đất nước từng đi lên từ đổ nát chiến tranh, từng bị cấm vận, bị bao vây, nay đã là hình mẫu phát triển năng động, tự tin hội nhập quốc tế.

Vậy nên, bất kỳ ai phủ nhận con đường phát triển của Việt Nam đều đang phủ nhận chính thực tiễn khách quan, phủ nhận khát vọng và nỗ lực không ngừng nghỉ của hàng triệu người dân Việt Nam. Và chính thực tiễn ấy – chứ không phải luận điệu xuyên tạc – sẽ là tiếng nói mạnh mẽ nhất chứng minh rằng: Việt Nam không chỉ có thể, mà đang thực sự bước vào kỷ nguyên phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử hiện đại của dân tộc.

Trách nhiệm của cán bộ, Đảng viên trong phản bác Luận điệu sai trái về “Kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”

Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong phản bác luận điệu sai trái về “Kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam” là một nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi không chỉ sự kiên quyết mà còn sự am hiểu sâu sắc về lịch sử, chính trị và thực tiễn đất nước. Trước những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành tựu và tiềm năng phát triển của dân tộc Việt Nam, cán bộ, đảng viên cần chủ động, kiên định bảo vệ sự thật, khẳng định con đường phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Một là, nâng cao nhận thức và hiểu biết chính trị, đây là trách nhiệm quan trọng hàng đầu đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Trong bối cảnh thế giới ngày càng phức tạp, với những thông tin sai lệch lan truyền qua các kênh truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội, việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, và những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được là điều hết sức cần thiết. Cán bộ, đảng viên cần hiểu rõ rằng đất nước Việt Nam hiện nay đã và đang tiến bước vững chắc trên con đường đổi mới, phát triển, xây dựng một nền kinh tế mạnh mẽ, hiện đại, đồng thời củng cố quốc phòng và an ninh vững chắc. Những luận điệu xuyên tạc về "Việt Nam không thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc" là hoàn toàn sai trái, không có cơ sở thực tiễn, bởi những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và quốc phòng của đất nước trong những năm qua đã chứng minh rõ ràng sự phát triển mạnh mẽ của Việt Nam.

Hai là, cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò tiên phong trong công tác tuyên truyền, giải thích và phản bác các quan điểm sai trái. Trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ dừng lại ở việc hiểu rõ lý thuyết mà còn phải truyền tải thông tin chính thống, khách quan tới quần chúng nhân dân, đặc biệt là khi các thế lực thù địch đang cố tình xuyên tạc sự thật. Cán bộ, đảng viên cần tham gia tích cực vào công tác đấu tranh bảo vệ sự thật, làm rõ những thành tựu trong phát triển kinh tế, giáo dục, khoa học công nghệ, và sự ổn định chính trị xã hội của đất nước, đồng thời chỉ ra những mưu đồ đen tối của các thế lực phản động, luôn tìm cách phá hoại sự đoàn kết và phát triển của dân tộc.

Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong hành động và nỗ lực hết mình trong công việc. Đó không chỉ là lý thuyết mà phải được thể hiện qua các hành động cụ thể trong thực tiễn công tác và đời sống hàng ngày. Cán bộ, đảng viên cần là tấm gương sáng trong việc học tập, lao động, sáng tạo, phục vụ nhân dân, góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những hành động cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên là minh chứng sống động nhất cho sự vươn mình của dân tộc Việt Nam, góp phần phản bác các luận điệu sai trái và củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng học hỏi, cập nhật kiến thức về lịch sử, chính trị, và tình hình đất nước. Đặc biệt, trong các kỳ sinh hoạt chi bộ, đảng viên phải tích cực trao đổi, thảo luận để làm rõ những vấn đề liên quan đến sự phát triển của đất nước, đồng thời củng cố niềm tin vào Đảng và sự nghiệp đổi mới, phát triển của dân tộc. Cán bộ, đảng viên cần bảo vệ sự thật, đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc một cách quyết liệt nhưng cũng phải khéo léo, mềm mỏng trong cách tiếp cận, giải thích để đạt được hiệu quả cao nhất.

Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước đang phát triển mạnh mẽ, các thế lực thù địch và phản động luôn tìm cách phá hoại, xuyên tạc sự thật về thành tựu và con đường phát triển của Việt Nam. Cán bộ, đảng viên có trách nhiệm không chỉ bảo vệ sự thật mà còn phải đấu tranh với các luận điệu sai trái, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bằng sự gương mẫu trong hành động, kiến thức chính trị sâu sắc và tinh thần kiên quyết, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, khẳng định rằng Việt Nam hoàn toàn có thể bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng một đất nước vững mạnh, thịnh vượng và hòa bình.

Trung tá Nguyễn Thanh Tùng

Học viện Chính trị

Tài liệu tham khảo:

  1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2020), Chỉ thị 23-CT/TW về việc tiếp tục tăng cường công tác tư tưởng và lý luận trong tình hình mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 35-NQ/TW về đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, Hà Nội.
  3. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Chỉ thị số 22-CT/TW về việc nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền trong tình hình mới, Hà Nội.
  4. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Chỉ thị số 23-CT/TW về việc tiếp tục tăng cường công tác tư tưởng và lý luận trong tình hình mới, Hà Nội.
  5. C. Mác và Ph. Ăngghen (1848), “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995.
  6. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2021), Nghị quyết số 52-NQ/TW về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  7. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2024), Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2025, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tập II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  10. Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
  11. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
  12. Quốc hội Việt Nam (2021), Luật Đất đai 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  13. Nguyễn Phú Trọng (2020), Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.